Trên đây là các thông tin về Phiếu Lý lịch tư pháp số 2, để được tư vấn rõ hơn về cách thức yêu cầu cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, bạn đọc có thể liên hệ với tổng đài 19006199 để được giải đáp và hỗ trợ.
Như vậy, vợ chồng kia có vay bạn số tiền 100 triệu đồng, hiện tại họ đang làm thủ tục ly hôn thì đối với tư cách tố tụng tham gia của bạn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này, mặc dù bạn không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của bạn.
️ Luật sư hôn nhân gia đình 1️⃣ Ly hôn thỏa thuận, cách làm hồ sơ ly hôn thỏa thuận 2️⃣ Ly hôn tố tụng (ly hôn đơn phương thông qua tòa án) 3️⃣ Phân chia tài sản-Giành quyền nuôi con . ️ Luật sư dân sự (민사소송 변호사) 1️⃣ Va chạm xe cộ-tai nạn giao thông 2️⃣ Nợ lương-tiền 토직금-tai nạn lao động
Đặc điểm của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Thứ nhất, về tư cách chủ thể, xét trong hoạt động tố tụng, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được hiểu là "người tham gia tố tụng" là một chủ thể của tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1945 đến nay được chia ra làm 3 giai đoạn đó là từ năm 1945 đến năm 1975, từ năm 1975 đến năm 1988 và từ năm 1988 đến nay. trong đó có cải cách tư pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 không còn phù hợp nữa
Đây là câu hỏi được nhiều người thắc mắc khi tìm hiểu về chủ đề Mascot là gì. Đầu tiên, như đã chia sẻ, Mascot giúp truyền tải lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ của thương hiệu mà không cần sử dụng đến ngôn từ. Con người luôn tiếp thu và ghi nhớ thông tin
Những tranh chấp sau đây có thể được giải quyết theo phương thức TTTM: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và (3) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Zw41q9. Nếu bạn có nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ về luật hình sự, hãy liên hệ ngay cho luật sư qua hotline Luật sư can thiệp càng sớm, cơ hội bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp càng cao! Trong thực tiễn, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự trong vụ án hình sự vẫn còn nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau. Cụ thể như thế nào, mời bạn theo dõi bài viết sau đây của Luật Quang Huy để được làm rõ. 1. Xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự2. Xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn3. Xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn4. Xác định tư cách tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập5. Xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án6. Xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn dân sự với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án7. Cơ sở pháp lý Theo quy định, đương sự bao gồm các cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong vụ án chính là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự tức là xác định tư cách của đương sự trong vụ án. 2. Xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn Theo quy định, tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn được xác định như sau Người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Như vậy, nguyên đơn khi tham gia tố tụng không những chỉ là cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động hơn so với các đương sự khác. Hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ tố tụng. 3. Xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn Theo quy định, bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. Như vậy, để được xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn cần có các đặc điểm sau Là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khởi kiện. Bị đơn là người được giả thiết là có tranh chấp hay xâm phạm đến quyền lợi của nguyên đơn. 4. Xác định tư cách tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Theo quy định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Cụ thể, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của những đối tượng này được quy định như sau Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập Theo quy định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập Nếu có yêu cầu độc lập, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có các quyền của nguyên đơn theo quy định. Nếu yêu cầu độc lập đó không được Tòa chấp nhận giải quyết trong cùng một vụ án hình sự thì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện với nội dung khởi kiện là yêu cầu độc lập đó. Theo quy định, trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết; Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Xác định tư cách tham gia tố tụng hình sự 5. Xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trong thực tiễn việc xác định tư cách bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án còn có những quan điểm và ý kiến trái ngược nhau, dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Chúng tôi sẽ lấy 2 ví dụ minh họa để phân tích và làm rõ vấn đề này Ví dụ 1 Do có mâu thuẫn từ trước, A dùng dao chém B. B hoảng sợ bỏ chạy, A đã ném dao về phía B nhưng vô tình lại ném trúng C là người đi đường. Hậu quả B bị thương tích tỷ lệ 30%, C bị thương tích 9% và C không yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với A. Trong trường hợp này, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của C có các quan điểm sau Quan điểm thứ nhất cho rằng A đã có hành vi dùng dao chém B, ném dao về phía B nhưng lại gây thương tích cho C là người đi đường, xác định ý chí chủ quan của A là nhằm cố ý gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của B, không nhằm gây thương tích cho C. Trường hợp này xác định B là bị hại, C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vì ý chí chủ quan của A không nhằm gây thương tích cho C và C cũng không yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với A nên không thể xác định C là bị hại. Quan điểm thứ hai cho rằng A có hành vi dùng dao chém B gây thương tích và ném dao gây thương tích cho C, mặc dù ý chí chủ quan của A nhằm gây tổn hại cho sức khỏe của B, không nhằm gây tổn hại cho sức khỏe của C, nhưng thực tế khách quan buộc B phải nhận thức rằng hành vi dùng dao ném B, ngoài việc có thể gây thương tích cho B, có thể sẽ gây thương tích cho người khác, vì vậy căn cứ vào hậu quả A gây ra phải xác định B và C là bị hại trong vụ án, mới đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho C. Quan điểm tác giả Đồng tình với quan điểm thứ nhất, mặc dù A có hành vi dùng dao chém, ném dao về phía B, gây thương tích cho B và C người đi đường, tuy nhiên xác định tư cách tham gia tố tụng B là bị hại và C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bởi lẽ, ý chí chủ quan của A nhằm gây thương tích cho B, không nhằm gây thương tích cho C, A chỉ vô tình ném dao trúng C. Mặt khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác với tỷ lệ thương tật dưới 11% phải có đơn yêu cầu của bị hại thì cơ quan tiến hành tố tụng mới xử lý và xác định tư cách tham gia tố tụng là bị hại. Trường hợp này mặc dù trên thực tế C có bị tổn hại về sức khỏe do A gây ra nhưng C không có yêu cầu xử lý hình sự, vì vậy xác định tư cách của C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án liên quan đến vấn đề tiền cấp cứu điều trị cho C là phù hợp. Ví dụ 2 A và B có quan hệ là anh em trong gia đình, A mượn B chiếc xe mô tô Exciter để sử dụng. Ngày 23/1/2021 khi A nhậu tại quán C ở huyện Y, A để chiếc xe mô tô bên ngoài không khóa cổ thì bị D lấy trộm, trị giá chiếc xe mô tô Exciter là D bị xử lý về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 năm 2015. Trong vụ án này có những quan điểm khác nhau về xác định tư cách bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Quan điểm thứ nhất cho rằng Xác định tư cách tham gia tố tụng của A là bị hại, B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, mặc dù A chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, không có quyền định đoạt chiếc xe mô tô Exciter. Bởi vì trên thực tế A là người đang trực tiếp quản lý và sử dụng hợp pháp chiếc xe Exciter, xe bị mất trộm A phải có trách nhiệm bồi thường tài sản cho B. B tuy là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhưng xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng Xác định tư cách tham gia tố tụng của B là bị hại, A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bởi vì B là chủ sở hữu chiếc xe Exciter, B mới có quyền định đoạt, A chỉ được giao quyền chiếm hữu, sử dụng nhưng không có quyền định đoạt, xe mô tô bị lấy trộm, B bị thiệt hại về tài sản, A không bị thiệt hại về tài sản. Quan điểm tác giả Đồng tình với quan điểm thứ nhất, người đang quản lý hoặc trông giữ hợp pháp tài sản là bị hại trong vụ án hình sự vì thiệt hại của họ là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm, tức là có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả của tội phạm gây ra, còn chủ sở hữu tài sản là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. 6. Xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn dân sự với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Thực tiễn cho thấy, việc phân biệt và xác định tư cách tố tụng của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án gặp vướng mắc, có những quan điểm khác nhau. Ví dụ 1 Nguyễn Minh S là lái xe của Trung tâm y tế huyện H. Vào ngày 07/3/2018 Nguyễn Minh S lái xe ô tô của Trung tâm y tế huyện H vượt xe không đúng quy định đã đâm vào xe mô tô do anh Lê Văn K điều khiển, hậu quả làm anh K bị chết. Nguyễn Minh S bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D khởi tố về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo khoản 1 điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trong quá trình điều tra, Trung tâm y tế huyện H đã yêu cầu Nguyễn Minh S phải bồi thường thiệt hại do xe ô tô bị hư hỏng. Nguyễn Minh S đã bồi thường thiệt hại cho Trung tâm y tế huyện H và gia đình bị hại Lê Văn K. Kết thúc điều tra, Cơ quan Công an huyện D kết luận phần trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong không ai có yêu cầu gì. Trong vụ án này, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của Trung tâm y tế huyện H có nhiều quan điểm khác nhau như sau Quan điểm thứ nhất cho rằng Trong vụ án này, Trung tâm y tế huyện H là cơ quan bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có yêu cầu Nguyễn Minh S phải bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng xe ô tô. Căn cứ vào khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Trung tâm y tế huyện H phải là nguyên đơn dân sự. Quan điểm thứ hai cho rằng tư cách tham gia tố tụng của Trung tâm y tế huyện H trong vụ án này vừa là nguyên đơn dân sự, vừa là bị đơn dân sự vì Trung tâm y tế huyện H vừa là cơ quan bị thiệt hại và có đơn yêu cầu Nguyễn Minh S phải bồi thường thiệt hại, vừa là cơ quan phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình Lê Văn K vì là chủ sở hữu hợp pháp đã giao xe ô tô cho Nguyễn Minh S điều khiển dẫn đến gây tai nạn. Quan điểm thứ ba cho rằng trong vụ án này Nguyễn Minh S đã bồi thường xong thiệt hại cho cả Trung tâm y tế huyện H và gia đình anh Lê Văn K. Trước khi kết thúc điều tra, Trung tâm y tế huyện H và gia đình bị hại Lê Văn K không có yêu cầu thêm gì nữa về việc bồi thường nên trách nhiệm dân sự trong vụ án này đã giải quyết xong. Vì vậy tư cách tham gia tố tụng của Trung tâm y tế huyện H chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Ví dụ 2 A và B là hai quân nhân thuộc đơn vị D. A đánh B gây thương tích cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện quân y C. Sau khi B ra viện, Bệnh viện quân y C đã làm thủ tục thanh toán với Cơ quan bảo hiểm quân đội. A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 20175. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của Bệnh viện quân y C và Cơ quan bảo hiểm quân đội có những quan điểm khác nhau như sau Quan điểm thứ nhất cho rằng Trường hợp này A phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra đối với B. Luật Bảo hiểm quy định các trường hợp không được chi trả như thiệt hại do tội phạm gây ra như gây tai nạn giao thông, đánh nhau gây thương tích… A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích và bị kết tội có cơ sở khẳng định trường hợp này việc cứu chữa, điều trị cho B thuộc trường hợp bảo hiểm không chi trả, về nguyên tắc A phải bồi thường cho B nhưng chi phí điều trị đã được Bệnh viện quân y C thanh toán, vì vậy, xác định tư cách tham gia tố tụng của Bệnh viện quân y C là nguyên đơn dân sự, cơ quan bảo hiểm quân đội là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng Chi phí mà Bệnh viện quân y C chi trả cấp cứu, điều trị cho B thì A phải bồi hoàn, cần được xem xét lại vì cho đến nay không có quy định ngân sách cấp cho quân y chỉ dùng cho trường hợp bình thường, không dùng cho trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật. Hoạt động bảo hiểm và hoạt động bảo đảm quốc phòng cho các cơ sở quân y là khác nhau về bản chất, mục đích và cách chi trả. Cho nên không thể vận dụng Luật bảo hiểm cho hoạt động bảo đảm của các cơ sở quân y. Cơ quan bảo hiểm quân đội đã chi trả số tiền cấp cứu điều trị B cho Bệnh viện quân y C, vì vậy xác định tư cách tham gia tố tụng của Cơ quan bảo hiểm quân đội là nguyên đơn dân sự mới đúng, Bệnh viện quân y C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Quan điểm tác giả Đồng tình với quan điểm thứ hai, trường hợp trên xác định tư cách tham gia tố tụng của Cơ quan Bảo hiểm quân đội là nguyên đơn dân sự vì bị tội phạm gây thiệt hại gián tiếp nếu cơ quan Bảo hiểm quân đội có đơn yêu cầu A bồi hoàn tiền cấp cứu điều trị, Bệnh viện quân y C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì đã chi trả tiền cấp cứu điều trị cho B cơ quan bảo hiểm đã thanh toán lại tiền cấp cứu điều trị cho Bệnh viện. Nếu cơ quan bảo hiểm quân đội không có đơn yêu cầu A hoàn lại tiền cấp cứu điều trị B, thì xác định tư cách tham gia tố tụng của cơ quan bảo hiểm quân đội là người làm chứng. Theo hướng dẫn của Tòa án quân sự Trung ương, việc xác định tư cách tham gia tố tụng đối với trường hợp trên như sau Nếu Bệnh viện quân y đã làm hồ sơ thanh quyết toán và được Cơ quan Bảo hiểm quân đội duyệt chi thì xác định Cơ quan Bảo hiểm quân đội là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và buộc bị cáo phải hoàn trả lại số tiền này cho cơ quan bảo hiểm quân đội. Trường hợp Bệnh viện quân y đã chi trả và thanh toán tiền chi phí cứu chữa cho bị hại là quân nhân nhưng chưa được cơ quan Bảo hiểm quân đội thanh toán thì vẫn xác định Bệnh viện quân y là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; xác định cơ quan bảo hiểm quân đội là nguyên đơn dân sự nếu có đơn yêu cầu bị cáo bồi hoàn chi phí cấp cứu điều trị. 7. Cơ sở pháp lý Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021. Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về vấn đề tư cách tham gia tố tụng. Qua bài viết này, chúng tôi mong rằng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Để được tư vấn đầy đủ và chính xác nhất, mời quý khách hàng liên hệ tới Tổng đài tư vấn Luật hình sự trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để nhận tư vấn thêm về vấn đề mà quý khách hàng đang gặp phải. Trân trọng./.
Tư cách tham gia tố tụng? Ngày đăng 26/04/2013 A,B cùng trộm tài sản có giá trị 2 triệu bị xét xử và đã chấp hành xong bản án. B bỏ trốn và đến 01/2/2013 thì bị bắt theo Quyết định truy nã. Vậy khi xét xử A tham gia với tư cách tố tụng là gì? theo chương IV - TTHS 4247 Cảm ơn Phản hồi Chủ đề đang được đánh giá Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận
Việc xác định tư cách đương sự trong tố tụng dân sự là rất quan trọng và được quy định chii tiết trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Hãy cùng Lawkey tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây. 1. Xác định tư cách đương sựĐương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong vụ án dân sự chính là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Xác định tư cách của đương sự trong tố tụng dân sự tức là xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự. 2. Xác định tư cách nguyên đơn Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì nguyên đơn trong vụ án dân sự là “..người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.”Như vậy, nguyên đơn trong vụ án dân sự không những chỉ là người khởi kiện hay người được cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm mà nguyên đơn trong vụ án dân sự còn là cơ quan, tổ chức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động hơn so với các đương sự khác. Hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ tố Xác định tư cách bị đơn Theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì“Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.Như vậy, để được xác định tư cách bị đơn cần có các đặc điểm sau Là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự khởi đơn là người được giả thiết là có tranh chấp hay xâm phạm đến quyền lợi của nguyên Xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.Xem thêm Cách tính thời hạn kháng cáo theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015Trên đây là nội dung bài viết Xác định tư cách đương sự khi tham gia tố tụng dân sự . Nếu có thắc mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ Lawkey để được giải đáp chi tiết.
Theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 BLTTHS, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan, người tiến hành tố tụng NTHTT phải triệu tập những người có liên quan đến vụ án để tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng NTGTT. Việc xác định không đúng tư cách NTGTT có thể vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sẽ dẫn đến những hậu quả nhất định. Vì vậy, việc xác định đúng tư cách của NTGTT là yêu cầu bức thiết cho xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự TTHS.1/ Xác định tư cách người tham gia tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng nhìn từ thực tế địa phươngTừ khi BLTTHS có hiệu lực thi hành cho đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng CQTHTT địa phương đã tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS về NTGTT nên đã xác định đúng tư cách của từng chủ thể, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể khi tham gia tố tụng và không có vụ án nào bị khiếu nại, tố cáo, kháng cáo sau khi bản án xét xử về tư cách tố tụng của họ và không có trường hợp CQTHTT sau trả hồ sơ cho CQTHTT trước điều tra bổ sung trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xác định sai tư cách cạnh những mặt đạt được, trên thực tế, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các đối tượng có liên quan của các CQTHTT hiện còn nhiều vấn đề cần sự nhận thức phù hợp với quy định của pháp luật Hình thức thể hiện việc xác định tư cách người tham gia tố tụng trong các văn bản tố tụng Trong văn bản của các cơ quan điều traTrong giai đoạn khởi tố, điều tra, tư cách NTGTT được thể hiện trong các quyết định, biên bản liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra như Quyết định khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, quyết định tạm giam, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản kết luận điều tra… Trong các hình thức thể hiện này, tư cách NTGTT được thể hiện trong các quyết định, biên bản trước khi kết thúc điều tra có thể thay đổi nhưng tư cách NTGTT được thể hiện trong bản kết luận điều tra là kết quả chính thức, không thay đổi. Bởi vì, bản kết luận điều tra thể hiện sự đánh giá toàn diện của cơ quan điều tra về các vấn đề liên quan đến vụ án, trong đó có tư cách NTGTT và là văn bản đánh dấu việc kết thúc quá trình điều tra để chuyển sang giai đoạn truy thực tiễn, việc thể hiện tư cách NTGTT là người bị tạm giữ, bị can trong bản kết luận điều tra luôn đảm bảo sự rõ ràng, dễ xác định nhưng việc thể hiện tư cách những NTGTT khác lại rất chung chung. Bởi vì, trước khi trình bày lời khai của từng NTGTT ngoại trừ bị can, bản kết luận điều tra ghi toàn bộ tư cách của những người trình bày như sau“Lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanÔng Nguyễn Văn A, sinh năm, nơi cư trú… Ông A cho rằng…Ông Nguyễn Văn B, sinh năm, nơi cư trú… Ông B xác định…”.Cách thể hiện này rất khó để xác định ông A là người bị hại hay người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tương tự đối với tư cách của NTGTT cạnh đó, trong một số vụ án, phần thể hiện tư cách NTGTT trong bản kết luận điều tra lại ghi đầy đủ những NTGTT mà một vụ án thường có như Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Tuy nhiên, lời khai của những người bên dưới chỉ có thể xác định họ là người bị hại hoặc người làm chứng mà không có căn cứ nào xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự… Điều đó gây khó khăn cho việc xác định tư cách Trong văn bản của viện kiểm sátKhi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố, hình thức thể hiện tư cách NTGTT được viện kiểm sát xác định thông qua biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, các quyết định tố tụng có liên quan, cáo trạng hoặc quyết định truy tố và danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa. Trong số các hình thức trên thì cáo trạng hoặc quyết định truy tố là hình thức xác định cuối cùng tư cách NTGTT trước khi chuyển hồ sơ cho tòa án để xét xử. Ngoài ra, tư cách NTGTT còn được xác định trong danh sách những người cần triệu tập ra trước phiên thực tiễn, hình thức thể hiện tư cách NTGTT trong cáo trạng hoặc quyết định truy tố của viện kiểm sát cũng tương tự như cơ quan điều tra thể hiện, tức là liệt kê tư cách NTGTT trước rồi mới ghi lời khai của từng người mà không xác định rõ tư cách của từng người kèm theo lời khai của cạnh đó, việc thể hiện tư cách NTGTT trong các văn bản chính thức của viện kiểm sát còn thể hiện sự thiếu nhất quán như Có trường hợp cáo trạng thể hiện tên, tư cách tham gia tố tụng của một người nhưng danh sách những người triệu tập ra tòa lại không có; và ngược lại, danh sách những người cần triệu tập ra tòa có tên tư cách NTGTT nhưng cáo trạng lại không thể mặt thời gian, thông thường cáo trạng được lập trước rồi mới lập danh sách những người cần triệu tập ra tòa, nhưng nhiều khi chúng có cùng thời gian ban hành. Như vậy, không rõ việc xác định tư cách NTGTT theo cáo trạng đúng hay theo danh sách những người cần triệu tập khi có sự khác nhau giữa hai văn bản này. Thiết nghĩ, khi có sự thể hiện khác nhau giữa cáo trạng hoặc quyết định truy tố với danh sách những người cần triệu tập ra tòa thì để đánh giá viện kiểm sát có xác định đúng tư cách NTGTT hay không cần căn cứ vào cáo trạng hoặc quyết định truy tố, vì đây là văn bản chính thức và đánh dấu sự kết thúc giai đoạn truy tố, chuyển sang giai đoạn xét xử khi tòa án nhận hồ sơ và thụ lý theo quy định của pháp Trong văn bản của tòa ánTrong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tư cách NTGTT được thể hiện chủ yếu trong các quyết định, lệnh có liên quan; trong đó, quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản án là hình thức thể hiện tư cách NTGTT đầy đủ nhất. Nếu như quyết định đưa vụ án ra xét xử thể hiện toàn bộ tư cách NTGTT thì bản án chỉ đề cập đến những người mà phần quyết định của bản án có tác động đến quyền và nghĩa vụ của họ, người mà họ đại diện hay bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nên người làm chứng không được xác định trong phần đầu của bản án. Mặc dù phần đầu của bản án không thể hiện người làm chứng trong vụ án nhưng trong phần xét thấy có đề cập đến tư cách của người làm thực tế, sự thể hiện tư cách NTGTT trong quyết định đưa vụ án ra xét xử thông thường được xác định theo danh sách những người được triệu tập ra tòa của viện kiểm sát do hồ sơ chưa được nghiên cứu toàn diện, chặt chẽ và có thể thay đổi khi bản án được ban hành. Khi thảo án, nếu thấy rằng tư cách NTGTT theo quyết định đưa vụ án ra xét xử không chính xác thì thẩm phán, chủ tọa phiên tòa sẽ xác định lại và tại phiên tòa, nếu xác định đúng tư cách NTGTT đã được thể hiện như dự thảo bản án thì tư cách NTGTT sẽ được xác định như trong dự thảo bản án; còn nếu sai sẽ sửa lại cho phù nhiên, việc xác định tư cách NTGTT trước khi mở phiên tòa không đúng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của NTGTT. Chẳng hạn, khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu một người được xác định là người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự thì họ được nhận giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng nếu xác định một trong số những người này là người làm chứng thì họ chỉ được nhận duy nhất giấy triệu tập. Thêm vào đó, nếu khi thảo án xác định không đúng tư cách NTGTT thì khi phổ biến quyền và nghĩa vụ cho NTGTT cũng sẽ không đúng với quy định của BLTTHS. Chẳng hạn, một người được xác định là người làm chứng trong khi đáng lẽ họ phải được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ sẽ bị hạn chế một số quyền, trong đó có quyền tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 54 BLTTHS. Cho nên, mặc dù bản án là văn bản chính thức thể hiện việc xác định tư cách NTGTT của tòa án nhưng nếu việc xác định tư cách NTGTT trước khi ban hành bản án không đúng cũng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Xác định tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong một số trường hợp cụ thể Nhầm lẫn giữa tư cách tham gia tố tụng của người bị hại, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi liên quan đến vụ án khi họ đều là cá nhânKhi nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức thì tư cách của họ dễ dàng phân biệt với người bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, khi họ là cá nhân thì việc xác định rõ tư cách của từng đối tượng không dễ. Chẳng hạn, trong vụ án gây rối trật tự công cộng, người bị hành vi của người phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tài sản nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội độc lập, họ tham gia tố tụng với tư cách gì? Có ý kiến cho rằng, những người này là người bị hại vì thiệt hại của họ do hành vi của người phạm tội gây ra, nếu không xác định họ là người bị hại sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Ý kiến khác lại cho rằng, những người này không phải là người bị hại vì thiệt hại của họ không phải là đối tượng tác động của tội phạm nên họ là nguyên đơn dân tôi cho rằng, để xác định người bị thiệt hại trong trường hợp này với tư cách nào cần phải làm rõ khách thể của tội gây rối trật tự công cộng. Khách thể của tội gây rối trật tự công cộng được hiểu là trật tự, an toàn công cộng mà trực tiếp là các quy tắc sống lành mạnh cũng như hoạt động bình thường của xã hội tại những khu vực công cộng. Như vậy, quyền sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể không phải là đối tượng tác động của tội này nên người bị thiệt hại không phải là người bị hại. Tuy nhiên, trong vụ án này, để xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng thì người phạm tội phải tác động đến quy tắc sống lành mạnh, hoạt động bình thường của xã hội, đó có thể là việc bảo đảm quyền của chủ sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người cụ thể ở nơi công cộng. Thiệt hại của các chủ thể này cũng được xác định do tội phạm gây ra, nhưng họ không phải là người bị hại, vì họ không phải là đối tượng tác động của tội phạm. Họ cũng không phải là người có quyền lợi liên quan đến vụ án vì người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất, tinh thần liên quan đến vụ án và không phải là người bị thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy, việc xác định người bị thiệt hại trong vụ án này là nguyên đơn dân sự là phù hợp với lý luận và quy định của Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng chưa rõ ràngTrong vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên có gây thiệt hại cho người khác thì các CQTHTT thường xác định cha, mẹ bị cáo là người đại diện hợp pháp cho bị cáo và là bị đơn dân sự. Tuy nhiên, không phải bất kể người chưa thành niên nào phạm tội mà có gây thiệt hại thì cha, mẹ người đó đều là bị đơn dân trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do bị cáo gây ra khi thực hiện hành vi phạm tội. Trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ bị cáo với tư cách bị đơn dân sự là trách nhiệm của chính mình, không phải là trách nhiệm nhân danh bị trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu đối với thiệt hại do bị cáo gây ra và tham gia tố tụng với tư cách người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo. Việc tòa án quyết định bị cáo phải bồi thường cho ai, với mức và các khoản bồi thường như thế nào ảnh hưởng đến nghĩa vụ của cha, mẹ bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ tài sản để bồi lưu ý, việc xác định tư cách cha, mẹ bị cáo là người chưa thành niên là bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án không làm mất đi tư cách đại diện hợp pháp của cha, mẹ bị cáo, vì phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là người đại diện hợp pháp với nguyên đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan là khác nhau. Do sự khác nhau đó, người tham gia tố tụng này không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng khác. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền mời người bào chữa cho bị cáo; có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha, mẹ bị cáo có quyền có người đại diện hợp pháp và mời người bảo vệ quyền lợi cho mình; quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến việc bồi thường thiệt hại và nghĩa vụ của Nhầm lẫn trong việc xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứngTrong các vụ án chứa mại dâm, mua bán trái phép chất ma túy và đánh bạc thì có CQTHTT xác định người mua dâm, người mua ma túy sử dụng, người tham gia đánh bạc là người làm chứng; có cơ quan lại xác định những người này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khi hành vi của họ không bị khởi tố về tội độc xác định đúng tư cách của người mua dâm, người đánh bạc và người mua ma túy sử dụng cần phải nắm rõ quy định của pháp luật về tư cách của từng chủ thể. Người có nghĩa vụ liên quan là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình, trách nhiệm này chủ yếu là trách nhiệm vật chất. Trong khi đó, người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các CQTHTT triệu tập để cung cấp thông tin về những tình tiết có liên quan đến vụ án. Như vậy, cả người làm chứng và người có nghĩa vụ liên quan đều nắm được thông tin liên quan đến vụ án. Đối chiếu với các vụ án trên, người mua dâm, người đánh bạc và người mua ma túy đều có hành vi liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện; nhưng họ cần phải có điều kiện là theo quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình. Do đó, nếu hành vi của họ không được pháp luật quy định trách nhiệm thì họ không được xác định là người có nghĩa vụ liên quan mà phải được xác định là người làm Việc xác định tư cách người làm chứng, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi liên quan trong vụ án chống người thi hành công vụ còn có sự nhầm lẫnViệc xác định tư cách người thi hành công vụ bị gây thương tích nhưng không cấu thành tội độc lập trong vụ án chống người thi hành công vụ cũng có sự nhầm lẫn. Có cơ quan xác định người thi hành công vụ là người bị hại vì họ đã bị gây thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; có cơ quan xác định họ là người làm chứng; cơ quan khác lại xác định họ là người có quyền lợi liên quan. Trong ba quan điểm này, quan điểm xác định người thi hành công vụ là nguyên đơn dân sự là phù hợp vì người thi hành công vụ có thiệt hại về sức khỏe; thiệt hại này do tội phạm gây ra và họ có đơn yêu cầu bồi thường. Nếu họ không có yêu cầu bồi thường thì quyết định của CQTHTT có liên quan đến quyền và lợi ích của người này nên họ là người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Nếu họ không bị thiệt hại về sức khỏe thì họ có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng trong vụ án. Cần lưu ý, tại phiên tòa, trường hợp nếu không có căn cứ thể hiện ý chí của người thi hành công vụ bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường hay không có yêu cầu bồi thường từ khởi tố đến xét xử thì tư cách của người thi hành công vụ vẫn là nguyên đơn dân sự và họ có quyền khởi kiện tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu Trường hợp người đã bỏ tiền ra cứu chữa, mai táng cho người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích, vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộChẳng hạn, trong các vụ án xâm phạm quyền sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người khác, mặc dù là người đã thành niên khi thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị cáo lại không có tài sản để khắc phục thiệt hại nên tác động người thân gia đình, bạn bè hoặc người thân của họ tự nguyện bỏ tiền ra bồi thường để khắc phục hậu quả, thì tư cách của những người này cần được xác định như thế nào để đảm bảo quyền lợi của họ trong việc yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền đã bỏ tiễn có cơ quan xác định họ là nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi giải quyết vụ án, CQTHTT sẽ giải quyết cả phần chi phí cứu chữa, mai táng đã bỏ ra. Nếu có căn cứ sẽ công nhận số tiền mà chủ thể đã sử dụng vào việc cứu chữa, mai táng. Trong trường hợp này cần xác định người đã bỏ tiền cứu chữa, mai táng là người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Trong trường hợp người bị hại chết mà chi phí này do người đại diện hợp pháp của họ bỏ ra thì xác định họ có hai tư cách vừa là người đại diện hợp pháp cho người bị hại, vừa là người có quyền lợi liên quan đến vụ Trường hợp người đã đưa tiền cho bị cáo khắc phục hậu quảĐối với trường hợp này, thực tiễn có cơ quan xác định họ là người có quyền lợi liên quan; có cơ quan không đưa họ vào tham gia tố tụng vì cho rằng họ không liên quan đến vụ án. Theo chúng tôi, trong trường hợp này, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả số tiền bồi thường lại của người khác. Khi giải quyết vụ án sẽ đề cập đến số tiền của người đã bỏ ra bồi thường. Vì vậy, phần quyết định giải quyết sẽ liên quan đến số tiền đã bỏ ra bồi thường. Do đó, cũng như người đã bỏ ra chi phí mai táng, cứu chữa cho người bị hại thì cần xác định chủ thể này là người có quyền lợi liên quan đến vụ án để đảm bảo quyền lợi của họ sau này, còn việc họ có yêu cầu bị cáo giao trả lại hay không phụ thuộc vào ý chí của Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sựKhi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hồ sơ có thể bị trả để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 3 điều 168 trường hợp viện kiểm sát trả hồ sơ cho cơ quan điều tra, điểm c khoản 1 điều 179 trường hợp tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm sát. Đối với tòa án sơ thẩm, bản án của cấp này có thể bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử lại theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 250 hoặc bị cấp giám đốc thẩm hủy theo quy định tại khoản 3 điều 273 khi thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 của liên bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS TTLT số 01 được ban hành, việc xác định trường hợp nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng chưa rõ ràng, trong đó việc xác định không đúng tư cách NTGTT của CQTHTT trước có được xem là vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng để CQTHTT sau trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án hay không, nên thông thường trong thực tiễn, khi CQTHTT trước xác định sai tư cách NTGTT thì CQTHTT sau sửa lại cho đúng mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung hay hủy án. Tuy nhiên, từ khi TTLT số 01 ra đời, điểm c khoản 2 điều 4 thông tư liên tịch này đã quy định việc “xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của NTGTT trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ” là một trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định tại khoản 3 điều 168, điểm c khoản 1 điều 179 BLTTHS và có thể xem quy định này cũng được áp dụng cho quy định tại điểm a khoản 2 điều 250, khoản 3 điều 273 nhiên, theo điểm a khoản 3 điều 4 của TTLT số 01, không phải cứ xác định không đúng tư cách NTGTT thì CQTHTT sau có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án mà việc xác định không đúng này phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đề đặt ra là quyền và lợi ích hợp của NTGTT bị xâm phạm là người bị xác định không đúng tư cách hay NTGTT khác hay tất cả NTGTT. Bởi vì, điểm c khoản 2 điều 4 của TTLT số 01 quy định xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xác định sai tư cách trong khi điểm a khoản 3 điều 4 của TTLT số 01 lại quy định phải xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT nói tiễn cho thấy, việc xác định sai tư cách NTGTT có thể xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xác định sai tư cách, cũng có thể NTGTT khác hoặc có thể không. Trường hợp không xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì không đề cập đến. Đối với hai trường hợp còn lại, khi xác định không đúng tư cách NTGTT hoặc sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đó hoặc NTGTT khác. Chẳng hạn, người bị thiệt hại về sức khỏe nhưng chưa đến mức bị khởi tố về tội độc lập trong vụ án gây rối trật tự công cộng nếu xác định họ là người bị hại thì họ có quyền kháng cáo bản án tăng nặng hình phạt đối với bị cáo, trong khi xác định đúng tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ án thì họ không có quyền này và việc xác định sai tư cách sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị việc xác định sai tư cách thì việc xác định không đúng tư cách còn bao gồm việc xác định một người không phải là NTGTT nhưng lại xác định họ là NTGTT và ngược lại. Chẳng hạn, người đứng tên trong giấy đăng ký mô tô, xe máy mà bị cáo đã sử dụng để cướp giật tài sản nhưng cơ quan điều tra không đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong khi bị cáo mua xe của họ nhưng chưa thanh toán đủ và chưa chuyển tên nên đã ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của cạnh đó, hành vi xác định không đúng tư cách của NTGTT còn phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì mới thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thông tư liên tịch số 01 không giải thích thêm xâm hại nghiêm trọng là như thế nào. Theo từ điển tiếng Việt, xâm phạm là “động chạm đến quyền lợi của người khác”; nghiêm trọng là “ở trong tình trạng xấu, gay go đến mức trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại”3. Từ đó, xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT được hiểu là hành vi vi phạm làm mất hoặc hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT mà đáng ra họ phải được hưởng trọn vẹn; đồng thời, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại cho họ. Chẳng hạn, một người là người bị hại trong vụ án nhưng cơ quan điều tra không mời người này tham gia tố tụng, làm mất quyền của họ, hay một người bị trộm cắp đồng và có đủ chứng cứ xác định là người bị hại nhưng cơ quan điều tra lại xác định họ chỉ bị chiếm đoạt đồng nên người này chỉ có thể được xác định là nguyên đơn dân sự trong vụ án và làm hạn chế quyền và lợi ích của họ. Việc xác định không đúng như hai trường hợp trên có thể gây thiệt hại cho NTGTT trong việc yêu cầu bồi thường. Như vậy, chỉ xem việc xác định không đúng tư cách NTGTT để trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án khi hành vi xác định không đúng đó xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng trong vụ Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp liên quan đến việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng Hoàn thiện pháp luật về xác định tư cách người tham gia tố tụngTừ phân tích trên, để hoàn thiện pháp luật về các vấn đề này, chúng tôi cho rằngThứ nhất, pháp luật cần xác định rõ ràng chủ thể nào là NTGTT bởi vì không như NTHTT được quy định cụ thể tại khoản 2 điều 33 BLTTHS, NTGTT không được quy định bao gồm những chủ thể nào mà chỉ quy định NTGTT là tiêu đề của chương IV BLTTHS rồi liệt kê từng loại chủ thể. Trong khi đó, ngoài từng chủ thể được quy định là tiêu đề của mỗi điều luật, trong mỗi điều luật còn quy định người đại diện hợp pháp của họ cũng tham gia tố tụng. Như vậy, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự… có phải là NTGTT hay không cũng chưa được thể hiện rõ. Vì vậy, cần giới hạn phạm vi những chủ thể được xác định NTGTT là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hai, bổ sung vào điều 62 BLTTHS trách nhiệm xác định chính xác tư cách NTGTT của cơ quan, NTHTT để đảm bảo quyền của từng chủ thể khi tham gia vào vụ án hình ba, quy định rõ hơn hoặc có sự giải thích phù hợp đối với khái niệm của từng NTGTT như Khái niệm giữa người bị hại với nguyên đơn dân sự; người có nghĩa vụ liên quan với bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cần quy định loại trừ những chủ thể được xác định là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại thì không phải là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ một người có thể tham gia hai tư cách bởi vì khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mang phạm vi rất tư, bổ sung quy định về người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vào điều luật quy định về họ; đồng thời xác định đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại phải là đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp bị can, bị cáo ủy quyền cho người khác thuê người bào chữa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đại diện theo ủy Giải pháp về thực tiễnThứ nhất, về hình thức xác định tư cách NTGTT trong các giai đoạn tố tụng. Để có cơ sở xác định đúng tư cách NTGTT trong từng giai đoạn tố tụng, các cơ quan, NTHTT cần phải xác định rõ tư cách của mỗi chủ thể có thể kèm theo lời khai của họ trong các văn bản kết thúc các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm để cơ quan có thẩm quyền ở giai đoạn tố tụng sau biết được việc xác định tư cách của NTGTT ở giai đoạn tố tụng trước có đúng quy định pháp luật hay không. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát cần tránh ghi gộp chung tất cả các tư cách cũng như ghi thừa tư cách NTGTT trong văn bản kết thúc giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền của mình. Riêng viện kiểm sát, tránh sự sai sót trong việc xác định tư cách NTGTT trong cáo trạng hay quyết định truy tố với danh sách những người cần triệu tập đến tòa. Đối với tòa án, trước khi ban hành quyết định xét xử, thẩm phán, thư ký tòa án cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để xác định đúng tư cách hai, NTHTT phải nắm vững quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tư cách của từng NTGTT để dễ dàng áp dụng. Từng CQTHTT cần phải quán triệt quy định về NTGTT trong BLTTHS và văn bản hướng dẫn đến tất cả những NTHTT trong cơ quan để thống nhất áp dụng. Khi có sự hiểu khác nhau về tư cách NTGTT, các CQTHTT cần phải thống nhất khi họp phối hợp ba ngành hàng tháng hoặc có thể họp bất thường để tránh việc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng như tránh bị sửa, hủy án sau khi xét xử.
Tôi là luật sư tập sự mới hành nghề nên tôi muốn biết hoạt động tham gia tố tụng của luật sư được pháp luật quy định như thế nào? Làm sao để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi tham gia tố tụng? Mong được tư vấn cụ thể. Cám ơn rất nhiều! Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định ra sao? Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa được quy định ra sao? Cần xuất trình các giấy tờ cần thiết nào để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa? Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định ra sao?Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư 2006 được sửa đổi bởi khoản 14 Điều 1 Luật Luật sư sửa đổi 2012 như sau"Điều 27. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư...2. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng của luật sư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức, luật sư hướng dẫn xuất trình Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng."Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư được pháp luật quy định như thế nào? Làm sao để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi tham gia tố tụng?Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa được quy định ra sao?Hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa được quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư 2006 được sửa đổi bởi khoản 14 Điều 1 Luật Luật sư sửa đổi 2012 như sau"Điều 27. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư...3. Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, Giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ chối hoặc yêu cầu thay đổi Luật sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật....Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong vụ án hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư hướng dẫn gửi kèm theo Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng đến cơ quan tiến hành tố tụng để đề nghị cho phép người tập sự được đi cùng luật sư hướng nhất là ba ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ, kể từ khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư, trong đó cho phép người tập sự hành nghề luật sư tham gia vụ việc nếu có; trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật tố cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và Giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư."Cần xuất trình các giấy tờ cần thiết nào để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa?Các giấy tờ cần thiết cần xuất trình để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa theo khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư 2006 được sửa đổi bởi khoản 14 Điều 1 Luật Luật sư sửa đổi 2012 gồm có- Thẻ luật sư;- Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc của người khác hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.
tư cách tố tụng là gì