Thu (Chế Lan Viên) 11. Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ) 12. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) Vũ Quần Phương: 1. Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) 2. Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) 3. Đi giữa đường thơm (Huy Cận) 4. Tràng giang (Huy Cận) 5. Nhớ rừng (Thế Lữ) 6. Bên sông đưa khách (Thế Lữ) 7. Trưa đơn giản (Chế Lan Viên) 8. Ở Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 9. Do tiếp thu thể thơ hành của Trung Quốc nên, các bài thơ hành của Phong trào Thơ Mới đều sử dụng lớp từ Hán Việt để đặt tiêu đề: Hành phương Nam, Can trường hành, Vọng nhân hành, Tống biệt hành, Độc hành ca. Trong các bài thơ số lượng từ Hán Việt cũng sử dụng Phong Trào Thơ Mới (1932-1945) - Tiết 5 - Ngữ Văn 11. Chuyên mục: : Dạy và học trực tuyến, Lớp 11 online. » Mua Sách Tại Những Trang Thương Mại Điện Tử Uy Tín. Tiki Shopee Fahasa. Văn mẫu lớp 11; Giải Toán 11; Giải Toán 11 nâng cao . Giải Vật Lí 11 Giải Địa Lí 11 . Giải Tiếng Anh 11; Giải Tiếng Anh 11 mới; Giải Lịch sử 11; Giải Tin học 11; Giải GDCD 11; Giải Công nghệ 11; Giải Giáo dục quốc phòng 11; Sách/Vở bài tập. Với thể thơ tự do phóng Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra "một thời đại trong thi ca" 1, mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. I- Hoàn cảnh lịch sử xã hội. Một trào lưu văn học ra đời bao Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11. Thông tin cần xem thêm: tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi đến với cách mạng. gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới. Phân tích Từ ấy học sinh giỏi Tác giả: www.facebook.com Ngày đăng: 11/13/2021 07:58 AM Đánh giá: 3 ⭐ ( 71927 đánh giá) Tóm tắt: Cần Thơ - Chỉ còn 2 ngày nữa, Cần Thơ sẽ diễn ra kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2022 - 2023. Hiện tại ngành giáo dục thành phố vẫn gấp rút các bước chuẩn bị cho kỳ thi. rpZa. Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Chuyên đề 4 Chủ nghĩa lãng mạn và Phong trào Thơ mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênChuyên đề 4 Chủ nghĩa lãng mạn và Phong trào Thơ mới. -Thời gian thực hiện 4 tiết A. Mục tiêu cần đạt Qua bài giảng tự chọn giúp học sinh - Hệ thống lại kiến thức đã học về khuynh hướng sáng tác lãng mạn thuộc bộ phận văn học hiện đại Việt Nam từ đàu thể kỷ XX đến năm 1945 trong chương trình Ngữ văn 11 - Bảo đảm học sinh bám sát được nội dung vận dụng vào làm các bài nghị luận về thơ. - Tạo cho học sinh biết cảm thụ, thích thú về vẻ đẹp ngôn từ trong thơ mới nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung. B. Phương pháp -Phương pháp chủ đạo Tổng hợp, đặt câu hỏi, gợi mở -Phương pháp kết hợp Phân tích ví dụ, thuyết giảng, tái tạo, câu hỏi nêu vấn đề, C. Tiến trình tiết dạy định, 2’ thiệu bài mới 3’ TG HOẠT ĐỘNG CỦA GV & HS NỘI DUNG CẦN ĐẠT 40’ 40’ 45’ 5’ HĐ 1 Tìm hiểu sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn CNLM + Trên thế gới. + Việt Nam Gv Khái quát, đi tìm nguồn gốc CNLM Hs Trình bày quan điểm của cá nhân. Gv Nhận xét, tổng hợp, Chuẩn kiến thức. Gv Chủ nghĩa cổ điển Tiếng Pháp Classique; lớp học Nghĩa rộng; mẫu mực. Nghĩa hẹp thường đợc gọi một cách hoàn chỉnh là chủ nghĩa cổ điển để chỉ khuynh hướng văn học mang tính chất mẫu mực khuôn phép dạy trong các nhà trường ở Thể kỷ XVII đến XIX x. thêm Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử. Gv Trình bày hai khuynh hướng chính của chủ nghãi lãng mạn. HĐ 2 HD tìm hiểu về Phong trào thơ mới. Gv Hướng dẫn ọc sinh tìm hiểu nguồn gốc sự ra đời của phong trào thơ mới. Hs Thảo luận trao đổi nguyên nhân sự ra đời của phong trào thơ mới Gv giảng thêm Sự ra đời của Giai cấp tư sản và tiểu tư sản tuy khơng tham gia chống Pháp và khơng đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thơng qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hố, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác. Gv Dẫn dắt vẫn đề Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hịa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, ? Giai đoạn này diễn ra cuộc đấu tranh nghệ thuật nào tiêu biểu? GV KL Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra khơng thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hồng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới. ? Trong gia đoạn phát triển của VH Việt nam GĐ 1936 – 1939 có những tập thơ của nào? Của nhà thơ nào tiêu biểu? HS Thảo luận trả lời. GV KL vấn đề Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hĩa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tơi. Cái Tơi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tơi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thốt ly riêng. ? Tìm những tác giả và tác phẩm tiêu biểu gia đoạn này? Gv KL vấn đề. GV dẫn dắt vấn đề Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã cĩ những đĩng gĩp vào văn mạch của dân tộc” “ Trong phần tốt của nĩ, Thơ mới cĩ một lịng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nĩi của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dịng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa” “Các nhà thơ mới đều giàu lịng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”. ? Tinh thần dân tộc được thể hiện trong những tác phẩm tiêu biểu? Gv Giảng thêm Nhà thơ Thế Lữ luơn mơ ước được “tung hồnh hống hách những ngày xưa” Nhớ rừng; Huy Thơng thì khát khao “Muốn uống vào trong buồng phổi vơ cùng Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”. Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lịng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước” trong từng câu ca “Nằm trong tiếng nĩi yêu thương Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”. Gv Liệt kê một số tác giả và tác phẩm thể hiện được tâm sự yêu nước thiết tha. Gv Giảng thêm Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái khơng khí mộc mạc quen thuộc của ca dao Nguyễn Bính, Đồn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Hình ảnh thơn Đồi, thơn Đơng, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước. ? Tìm những hạn chế của Phong trào thơ mới ? Hs Suy nghĩ trả lời Gv Kl vấn đề ? Trình bày những đặc điểm nổi bật của PTTM GV Giảng, lấy ví dụ chứng minh Ý thức về cái Tơi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tơi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đĩ là con người cá tính, con người bản năng chứ khơng phải con người ý thức nghĩa vụ. Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới lên tiếng trước “Tơi là con chim đến từ núi lạ ”, “Tơi là con nai bị chiều đánh lưới” Cĩ khi đại từ nhân xưng “tơi” chuyển thành “anh” “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!” Thoảng hoặc cĩ khi lại là “Ta” “Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất Khơng cĩ chi bè bạn nổi cùng ta”. ? Trình bày cái buồn trong thơ mới. Gv Lấy ví dụ phân tích. Cái Tơi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cơ đơn. Nỗi buồn cơ đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khơ”. Lưu Trọng Lư . Với Chế Lan Viên đĩ là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” tức dân Chàm “Đường về thu trước xa xăm lắm Mà kẻ đi về chỉ một tơi” ? Trình bày những cảm nhận về thiên nhiên tình yêu trong thơ mới. GV Lấy ví dụ phân tích Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”. Và đây là hình ảnh buổi trưa hè “Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao Cĩ cu gáy và bướm vàng nữa chứ” Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ơng hồng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên “Tơi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá Chỉ biết yêu thơi chẳng biết gì”. Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cơ đơn sầu não “Với tơi tất cả như vơ nghĩa Tất cả khơng ngồi nghĩa khổ đau”. GV Dẫn dắt vấn đề Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hĩa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc. ? Trình bày một số đặc điểm nghệ thuật của phong trào thơ mới. GV Lấy ví dụ chứng minh “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lịng lên chơi vơi” Xuân Diệu hay “Ơ hay! Buồn vương cây ngơ đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mơn Bích Khê Ngồi việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới cịn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt “Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” Xuân Diệu “Con đường nhỏ nhỏ, giĩ xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều” Xuân Diệu hay “Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng Đị biếng lười nằm mặc dưới sơng trơi” Anh Thơ Trong làn nắng ửng, khĩi mơ tan Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt giĩ trêu tà áo biếc Trên dàn thiên lý. Bĩng xuân sang”. Gv Trình bày đặc điểm này. Lấy ví dụ minh hoạ Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thơi Hiệu để bày tỏ lịng yêu nước “Lịng quê dợn dợn vời con nước Khơng khĩi hồng hơn cũng nhớ nhà”. HĐ 3 Hướng dẫn Tổng kết và luyện tập Gv Tổng kết chuyên đề này cho HS Gv Hd HS Luyện tập ở nhà Tìm đọc các tác gải và tác phẩm của phong trào thơ mới. I. Nguồn gốc sự ra đời của CNLM. 1. Nguồn gốc, đặc điểm của CNLM Vào cuối thể kỷ XVIII nửa đầu thể kỷ XIX Một trào lưu văn hoá lớn nhất ở Âu – Mỹ ra đời và có ảnh hưởng, ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của văn học toàn thể giới. Vào thể kỷ XVIII từ lãng mạn vốn được dùng để chỉ tất cả những cái gì hoang đường, kì lạ, khác thường chỉ thấy có ở trong sách chứ không có trong hiện thực. Vào cuối thể kỷ XVIII nửa đầu thể kỷ XIX CNLM trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một khuynh hướng văn học mới đối lập với chủ nghĩa cổ điển. Một số nét tiêu biểu của CNLM Đề cao chủ nghĩa cá nhân. Đề cao vai trò to lớn của cái trực giác, vô thức. Đề cao vai trò sáng tạo của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có quyền cỉa biến thế giới hiện thực bằng cách tạo cho mình một thế gới riêng, tốt đẹp hơn. 2. Hai khuynh hướng chính - Khuynh hướng tiêu cực Thể hiện thái độ bi quan với thực tại, tình cảm chán chường và hoài niệm quá khứ. - Khuynh hướng tích cực Thể hiện thái độ trần trề niểm tin vào thực tại và tương lai, lạc quan về nhân thế và khả năng cải tạo đời sống. II. Phong trào thơ mới. 1. Nguồn gốc sự ra đời của Phong trào thơ mới ở Việt Nam Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những địi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nĩ là tiếng nĩi, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nĩi của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đơng Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. 2. Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới . Cĩ thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan a- Giai đoạn 1932-1935 Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khơi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thơng, Vũ Đình Liên liên tiếp cơng kích thơ Đường luật, hơ hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ b- Giai đoạn 1936-1939 Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu tập Thơ thơ -1938, Hàn Mặc Tử Gái quê -1936, Đau thương -1937, Chế Lan Viên Điêu tàn - 1937, Bích Khuê Tinh huyết - 1939, Đặc biệt sự gĩp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn” . Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này. . c- Giai đoạn 1940-1945 Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhĩm Dạ Đài gồm Vũ Hồng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng ; nhĩm Xuân Thu Nhã Tập cĩ Nguyễn Xuân Sanh, Đồn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung ; nhĩm Trường thơ Loạn cĩ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Cĩ thể nĩi các khuynh hướng thốt ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Bên cạnh đĩ, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, khơng lối thốt. 3- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới a- Tinh thần dân tộc sâu sắc Thơ mới luơn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lịng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xơi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ cịn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưịi nghệ sĩ khơng được tự do Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm Cĩ thể nĩi, các nhà thơ mới đã cĩ nhiều đĩng gĩp, làm cho tiếng Việt khơng ngày càng trong sáng và giàu cĩ hơn. b- Tâm sự yêu nước thiết tha Cĩ thể nĩi, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lịng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đĩ là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp Em đi Chùa Hương; hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận Đẹp xưa; hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh Quê hương - Những mặt hạn chế của PTTM Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nĩi trên, Phong trào thơ mới cịn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, khơng tìm được lối ra, thậm chí thốt ly một cách tiêu cực. Điều đĩ đã tác động khơng tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám. 4- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới a- Sự khẳng định cái Tơi Phong trào thơ mới, cái Tơi ra đời địi được giải phĩng cá nhân, thốt khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đĩ. Đĩ là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới. “ Thơ mới là thơ của cái Tơi”. Thơ mới đề cao cái Tơi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đĩng gĩp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại. b - Nỗi buồn cơ đơn Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hồi Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới khơng phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người cĩ tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”6. Nỗi buồn cơ đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy cịn là cách giải thốt tâm hồn, là niềm mong ước được trải lịng với đời và với chính mình. c - Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”7. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đĩ là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống. Huy Cận. d - Một số đặc sắc về nghệ thuật Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phĩng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngơn, thất ngơn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngơn cĩ Tiếng thu Lưu Trọng Lư, Ơng Đồ Vũ Đình Liên, Em đi chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, chủ yếu viết theo thể thơ thất ngơn, cịn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát - Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ tồn thanh bằng Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngơn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thốt khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngơn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh e - Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp. Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,... III. Kết Luận Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã cĩ chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và cĩ sức sống lâu bền trong lịng các thế hệ người đọc. D. Củng cố – Dặn dò 5’ 1. Củng cố Học sinh phải hiểu được - Sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn trên thế giới - Sự ra đời của phong trào thơ mới ở Việt nam - Các giai đoạn phát triển và đặc điểm của thơ mới. 2. Dặn dò - Học kỹ nội dung bài - Đọc thêm các tác phẩm có liên quan để tìm hiểu thêm về phong trào thơ mới - Học thuộc lòng các bài thơ mới trong chương trình Ngữ văn 11 Hk II - Chuyên đề phong trào thơ mới lớp 11 được soạn dưới dạng file word gồm 29 trang. Các bạn xem và tải chuyên đề phong trào thơ mới lớp 11 về ở dưới. Phong trào thơ mới ở Việt Nam I. SỰ RA ỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI Sau chiến tranh thế giới lần thứ I 1914-1918, ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp Tư sản. Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất nước ta, gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy trong mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam. Những giá trị tư tưởng vững bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối tượng mỉa mai cay đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đi đôi với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt Nam. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn sau đợt khai thác kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên trí thức, viên chức cao cấp đã có một lối sinh hoạt văn minh ở thành thị. Người ta ở nhà lầu đi ô tô, dùng quạt điện, đi hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai, mỗi năm một mốt. Những đổi thay về sinh hoạt dần tới sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp. Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6-1934, Lưu Trọng Lư đã nói Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng trước một cô gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi, còn đối với ta như đứng trước một cánh đồng xanh mát mẻ… Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo mòn và cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới. Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội. Thơ cũ trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mới chủ yếu là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời. II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI Theo ông Phan Cư ệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ 1932-1939 1940-1945 Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn. 1. Thời kỳ 1932-1935 Thơ mới ra đời trong một hoàn cảnh như trên đã trình bày. Những biểu hiện ban đầu nổi lên trên bề mặt công luận là cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ. Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận khen chê sôi nổi là bài “Tình già” của Phan Khôi được ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ Hai mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa. dưới ngọn đèn mờ , trong ngôi nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn không đặng ể đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà buông nhau Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ. Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy. Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung… Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau ôi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi Tình già - Phan Khôi Bài giới thiệu của Phan Khôi cùng với thơ Tình già được coi như phát súng lệnh của phong trào Thơ mới. Từ đây cuộc đấu tranh rầm rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng chục tờ báo cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và trên nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ. a. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới Tháng 11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh viết thơ cũ là phiền phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt không khác luật hình. Năm 1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ của LaFontaine Con ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè ến kì gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối… ây là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất hâm mộ. ây chính là cơ sở cho một thể thơ mới ra đời. Cuộc bút chiến này có hai phe, phe thơ cũ và phe thơ mới. _ Ý kiến của phe thơ mới Phụ nữ Tân Văn số 29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929 … lối thơ ường luật bó buộc người làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào, nếu ngày nay ta cứ sùng theo lối thơ ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có ngày đổi Phong trào thơ mới 1932 – 1945 Mời các bạn học sinh tham khảo thêm Thế nào là đoạn văn Diễn dịch – Quy nạp Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn. Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca” 1, mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. I- Hoàn cảnh lịch sử xã hội. Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác. II- Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới . Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu. Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan2 1- Giai đoạn 1932-1935 Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới. Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tậpMấy vần thơ 1935. Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên … 2- Giai đoạn 1936-1939 Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu tậpThơ thơ -1938, Hàn Mặc Tử Gái quê -1936, Đau thương -1937, Chế Lan Viên Điêu tàn – 1937, Bích Khuê Tinh huyết – 1939, … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3 . Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này. Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng. 3- Giai đoạn 1940-1945 Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,… Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát. III- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”4. 1- Tinh thần dân tộc sâu sắc Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những ngày xưa” Nhớ rừng; Huy Thông thì khát khao “Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”. Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước” trong từng câu ca “Nằm trong tiếng nói yêu thương Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”. Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn. Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưòi nghệ sĩ không được tự do Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm … 2- Tâm sự yêu nước thiết tha Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp Em đi Chùa Hương; hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận Đẹp xưa; hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh Quê hương Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước. Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám. IV- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới 1. Sự khẳng định cái Tôi Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới. Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” chữ dùng của Phan Khôi. Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới lên tiếng trước – “Tôi là con chim đến từ núi lạ …” “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”… Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh” “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!” Thoảng hoặc có khi lại là “Ta” “Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta”. “ Thơ mới là thơ của cái Tôi”5. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại. 2 . Nỗi buồn cô đơn Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”6. Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”. Lưu Trọng Lư . Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” tức dân Chàm “Đường về thu trước xa xăm lắm Mà kẻ đi về chỉ một tôi” Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình. 3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”7. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống. Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”. Và đây là hình ảnh buổi trưa hè “Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ” Huy Cận. Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như “Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng Những khóm tre cao rủ trước thành” tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam. Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên “Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một “thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”8. Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não “Với tôi tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”. Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng buồn” Kinh cầu tự và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn “sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”. 4. Một số đặc sắc về nghệ thuật Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc. Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu Lưu Trọng Lư, Ông Đồ Vũ Đình Liên, Em đi chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần độc vận mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định “Tiếng địch thổi đâu đây Cớ sao nghe réo rắt Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt Mây bay… gió quyến, mây bay Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt Như hắt hiu cùng hơi gió heo may” Thế Lữ. Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn thanh bằng “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Xuân Diệu hay “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” Bích Khê Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt “Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” Xuân Diệu Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc “Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều” Xuân Diệu hay “Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi” Anh Thơ Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh “Trong làn nắng ửng, khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”. 5. Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp. Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,… Trong bàiTràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước “Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều bình diện từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt. Ta có thể tìm thấy điều này ở các bài Nguyệt Cầm, Đây mùa thu tới Xuân Diệu, Đi giữa đường thơm Huy Cận, Màu thời gian Đoàn Phú Tứ. Một số bài thơ trong tập Tinh huyết Bích Khê,Thơ điên Hàn Mặc Tử, Thơ say Vũ Hoàng Chương chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp của Budelaire …. Trong bài “Thơ mới-cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”9. Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới. Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc. ————————————— CHÚ THÍCH 1- Một thời đại trong thi ca Thi nhân Việt Nam, Hòai Thanh-Hoài Chân, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993, trang 15 2- Trong cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 NXB Giáo dục, 2002, Phan Cự Đệ chia làm 2 giai đoạn 1932-1939 và 1940-1945 3- Thi nhân Việt Nam Sđd, trang 106 4- Về Thơ mới Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 12 5- Thơ mới, những bước thăng trầm Lê Đình Kỵ, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1993, trang 46 6- Về cái buồn trong Thơ mới Hoài Chân, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 23 7- Về Thơ mới Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 9 8- Ba đỉnh cao Thơ mới Chu Văn Sơn- NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 24. 9- Thơ mới, cuộc nổi loạn của ngôn từ Đỗ Đức Hiểu, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 142. Biên soạn PMT Chuyên BL Thảo luận cho bài Phong trào thơ mới 1932 – 1945 Câu hỏi Phong trào thơ mới trải qua mấy giai đoạn? Đặc điểm chính của mỗi giai đoạn đó? Lời giải Phong trào thơ mới trải qua 3 giai đoạn, đó là * Giai đoạn 1932 -1935 – Những người khởi xướng phong trào Thơ Mới Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Tản Đà. – Các nhà thơ trong giai đoạn này kịch liệt chống đối thơ cũ, đưa ra những cách thức sáng tác mới. – Đến năm 1935 thắng thế nghiêng về nhóm thơ mới. => Giai đoạn mang tính tư tưởng. * Giai đoạn 1936 -1939 – Đội ngũ sáng tác Thơ Mới ngày càng hùng hậu. Đặc biệt có những tên tuổi xuất sắc như Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới – Các nhà thơ trong giai đoạn này chú trọng thay đổi về mặt nội dung và cả nghệ thuật. * Giai đoạn 1939 -1945 – Thơ Mới chiếm ưu thế và có vị trí vững chắc trong nền văn học Việt Nam. – Khái niệm “cái tôi” đã trở nên phổ biến. – Phát triển thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Xác hợp nhiều phong cách nghệ thuật. Cùng đi tìm hiểu chi tiết về quá trình hình và phát triển thơ mới qua nội dung bài viết dưới đây nhé I. Hoàn cảnh lịch sử xã hội. Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác. II. Các thời kì phát triển của thơ mới Theo ông Phan Cư ệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ giai đoạn 1932-1939 và giai đoạn 1940-1945. Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn. 1. Giai đoạn 1932-1935 Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ … Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ỷ tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới. Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ 1935. Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, … 2. Giai đoạn 1936-1939 Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu tập Thơ thơ -1938, Hàn Mặc Tử Gái quê -1936, Đau thương -1937, Chế Lan Viên Điêu tàn – 1937, Bích Khuê Tinh huyết – 1939, … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ ’mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã đuợc người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3. Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này. Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bàng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng. 3. Giai đoạn 1940-1945 Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,… Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát. III. Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận định “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm” mới mang tinh thần dân tộc sâu sắc Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thòi kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được Tung hoành hống hách những ngày xưa” Nhớ rừng; Huy Thông thì khát khao “Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”. Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng rư của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hèn thiêng đất nước” trong từng câu ca “Nằm trong tiếng nói yêu thương Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”. Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn. Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của người nghệ sĩ không được tự do Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Tràn Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm … mới mang tâm sự yêu nước thiết tha Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp Em đi Chùa Hương; hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận Đẹp xưa; hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh Quê hương Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước. Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám. Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 11, Ngữ Văn 11 1 1 THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN VĂN HỌC - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Tào Văn Ân Một thời gian khá dài, trong chương trình môn văn phổ thông trung học, Thơ mới nói riêng và văn học lãng mạn nói chung chỉ được trình bày sơ lược ở phần khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, cùng với sự đổi mới trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực, chương trình môn văn ở các lớp phổ thông trung học cũng đã có những điều chỉnh cho phù hợp với cách nhìn mới, với tình hình thực tế của văn học nước nhà. Từ 1989 đến nay, chương trình môn văn có những thay đổi đáng kể. Một số bài thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình môn Văn lớp 11 chương trình hợp nhất hai bộ sách miền Nam và miền Bắc năm 2000. Cụ thể có một tác giả và các bài thơ sau 1. Xuân Diệu Tiểu sử và sự nghiệp thơ văn. 2. Thơ duyên. 3. Đây mùa thu tới 4. Vội vàng. 5. Nguyệt cầm đọc thêm 6. Tràng giang của Huy Cận. 7. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 8. Tống biệt hành của Thâm Tâm 9. Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ đọc thêm 10. Tương tư của Nguyễn Bính. Những bài Nguyệt Cầm, Tiếng sáo thiên thai, Tương tư không được phân tích và bình giảng trên lớp mà chỉ yêu cầu học sinh đọc thêm. Như vậy, Thơ mới được giảng dạy trực tiếp trên lớp chỉ có 1 tác giả là Xuân Diệu và 7 bài thơ với sự phân bố thời gian là 8 tiết. Có thể nói các nhà biên soạn chương trình đã chọn và giới thiệu với học sinh lớp 11 một tác giả và những bài thơ tiêu biểu của Thơ mới nhằm giúp học sinh thấy được những cái hay, đặc biệt là những cái mới của phong trào thơ ca này. Sự phân bố số bài như trên là tương đối hợp lí so với những tác phẩm văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng cùng giai đọan chủ yếu được dạy ở lớp 12. Để có thêm tư liệu cho việc giảng dạy, chúng tôi liệt kê những bài Thơ mới và những bài nghị luận văn chương có liên quan trong 2 bộ sách giáo khoa lớp 11 mới nhất được biên soạn theo chương trình thí điểm Trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết định số 47/2002/QĐ-Bộ GD và ĐT ngày 19 tháng 11năm 2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT được xuất bản tháng 7 năm 2004. Giữa hai bộ sách mới có một số khác biệt nhỏ như sau Chương trình của Bộ sách thứ nhất do Trần Đình Sử làm Tổng chủ biên gồm các bài 1 1. Tác giả Xuân Diệu. 2 2. Vội vàng của Xuân Diệu. 3 3. Tràng giang của Huy Cận 4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 5 5. Mưa xuân của Nguyễn Bính. 6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh. Phần đọc thêm bắt buộc Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông; Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu Chương trình của bộ sách thứ 2 do Phan Trọng Luận làm Tổng chủ biên gồm các bài 1 1. Tác giả Xuân Diệu. 2 2. Vội vàng của Xuân Diệu. 13 3. Tràng giang của Huy Cận 4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 5 5. Tương tư của Nguyễn Bính. 6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh Phần đọc thêm bắt buộc Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông, Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu Như vậy, chương trình của 2 bộ sách vừa được xuất bản có một khác biệt nhỏ trong việc chọn lựa giữa 2 bài thơ của Nguyễn Bính Bộ 1 Mưa xuân, Bộ 2 Tương tư. Ngoài ra không còn sự khác biệt nào ở cả 2 phần chính thức và đọc thêm bắt buộc. So với sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình chính thức phần Thơ mới trong 2 bộ sách giáo khoa thí điểm mới nhất giảm đi 1 bài nhưng nếu học sinh phải học thêm những bài “đọc thêm bắt buộc” thì tổng số vẫn là 10 bài. Giáo viên đương nhiên phải dạy kĩ các bài chính thức nhưng không thể không lưu ý học sinh phải đọc kĩ những bài “đọc thêm bắt buộc”. Để phân tích và giảng dạy những bài thơ mới trong chương trình lớp 11, có thể cần phải lưu ý một số vấn đề quan trọng sau 1. Vấn đề văn bản và cách hiểu một số từ của các bài Thơ mới trong chương trình môn văn PTTH. Trước hết cần phải xác định chính xác văn bản thơ mà trong khi trích đăng cũng như bình giảng không ít người đã sơ sót, mặc dù đã được nhiều lần đính chính. Có những khác biệt ở một số bài thơ giữa 4 bộ sách giáo khoa văn học lớp 11 được xuất bản từ năm 2000 trở về trước Tên bài thơ Sách lớp 11 Ban KHXH. Đặng Thanh Lê chủ biên Sách lớp 11. Nguyễn Đình Chú chủ biên Sách lớp 11. Trần Hữu Tá chủ biên Sách lớp 11 chương trình hợp nhất năm 2000 Đây mùa thu tới -Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Thơ Duyên -Anh đi lững đững chẳng theo gần Anh đi lững đững chẳng theo gần Anh đi lững thững chẳng theo gần Anh đi lững đững chẳng theo gần Vội vàng -In thiếu cả câu -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Đây thôn Vĩ Dạ -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? -Sao anh không về chơi thôn Vĩ -Lá trúc che ngang mặt chữ điền -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? Tràng giang -Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về nước lại sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả -Lòng quê dờn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa 2Tống biệt hành Chí lớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cũng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Chí lớn chưa về bàn tay không ? Một chị hai chị cũng như sen Giờ chưa mùa thu tươi lắm thay Chí nhớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Chí lớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Qua so sánh, chúng tôi nhận thấy sách văn học chỉnh lí năm 2000 đã khắc phục được những sơ sót mà các bộ sách giáo khoa xuất bản trước đó mắc phải. Trong các bộ sách giáo khoa trước, bên cạnh những lỗi chủ yếu do in ấn, vẫn có những lỗi do người soạn chưa thật cẩn thận dẫn đến việc giải thích sai nghĩa của từ. Chẳng hạn, trong không ít lần, sách giáo khoa và nhiều tài liệu đã in sai từ "dợn dợn" trong bài Tràng giang của Huy Cận thành "dờn dợn". Từ việc trích sai thơ như vậy, người soạn sách cũng như người giảng dạy phân tích cái hay của từ ngữ và hình tượng thơ đã không ít lần giải thích thiếu chính xác ý nghĩa của từ ngữ cũng như dụng ý của nhà thơ. Trong một bài phê bình về cách hiểu sai từ "dợn dợn" trong bài thơ Tràng giang, Trần Mạnh Hảo cũng tiếp tục hiểu hai từ trên thành dờn dợn. Ông viết "Chúng tôi chỉ xin lấy một ví dụ khi tác giả sách giáo khoa giảng giải cho giáo viên hiểu câu thơ thứ ba của khổ thơ kết "Lòng quê dờn dợn vời con nước" như sau "Dờn dợn dờn là màu xanh dờn. Dợn là dợn lên, gợn lên cỏ non xanh dợn chân trời- Truyện Kiều... Sách giáo khoa giải thích từ dờn dợn cũng chưa đúng "dờn là màu xanh dờn". Dờn là một trợ từ, nhiều trường hợp chỉ có nghĩa khi đi kèm với một từ mẹ khác. Nó đi trước dợn theo kiểu gờn gợn, cốt làm cho sự dợn của sóng bớt đi, nhỏ đi Tào Văn Ân nhấn mạnh như cái dợn kia được nhìn từ xa, chứ không phải dờn là màu xanh dờn như sách giáo khoa đã giải thích" 1Nếu Trần Mạnh Hảo và một số nhà giáo đã đọc kỹ lời đính chính của chính nhà thơ Huy Cận thì sẽ không giải thích từ láy toàn phần dợn dợn thành dờn dợn "Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc sai thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như về nghệ thuật"2. Việc in chính xác văn bản không phải chỉ là yêu cầu đối với việc giảng dạy các bài Thơ mới hay môn ngữ văn mà là yêu cầu chung trong ngành sư phạm, đặc biệt là với sách giáo khoa. Những sơ sót này đã được sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000 điều chỉnh. Đây cũng chính là những điều kiện đầu tiên để cảm thụ đúng đắn thơ ca. Những bài thơ được in trong sách giáo khoa thí điểm xuất bản năm 2004 mặc dù đã sữa chữa nhiều sơ sót trong các lần in trước nhưng do trích thơ từ những nguồn khác nhau nên cũng có vài khác biệt. Hãy thử so sánh một số bài Thơ mới trong 2 bộ sách vừa nêu Tên bài thơ Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ 1- Trần Đình Sử chủ biên Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ 2- Phan Trọng Luận chủ biên Vội vàng Con gió xinh thì thào trong lá biếc Thơ thơ, Nxb Đời nay, H. 1938 Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1- Thơ, nxb Văn học, H. 1983. Đây thôn Vĩ Dạ Ai biết tình ai có đậm đà? Đau thương, nxb Hội nhà văn, H. 1995 Ai biết tình ai có đậm đà. Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu, nxb Văn học, H. 1991 Tràng giang Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả Sông dài trời rộng, bến cô liêu Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Lửa thiêng, Nxb Hội nhà văn, H. 1995 Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Lửa thiêng, Nxb Đời Nay, HN, 1940 3Tống biệt hành Một chị, hai chị cũng như sen Trời chưa mùa thu tươi lắm thay 1940 Thơ Thâm Tâm, Nxb Văn học, Một chị, hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay Thi nhân Việt Nam, in lần thứ 2, Nguyễn Đức Phiên xb, H. 1943 Tiếng địch sông Ô Chỉ trích một số đoạn tiêu biểu Theo Huy Thông; Tiếng sóng –Yêu thương-Tiếng địch sông Ô, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 1995 Trích từ câu 175 đến hết bài thơ câu 234 Theo Hà Nội báo, số 2 ngày 8-1-1936 Qua so sánh, có thể thấy Bộ 2, sách thí điểm có những sơ sót dẫn đến việc hiểu sai câu thơ và không thấy hết những nét riêng của nhà thơ. Chẳng hạn Con gió khác với cơn gió, và đó là cách nói mới mẻ của Xuân Diệu. Trong bài “Tràng giang”, giữa hai câu “Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả” và “ thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” không thể hiểu giống nhau được do dấu phảy được đặt ở những vị trí khác nhau..... Giảng bài “Đây thôn Vĩ Dạ” không thể không chú ý đến 3 dấu hỏi trong 3 khổ thơ đi liền theo các câu Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Có chở trăng về kịp tối nay? Ai biết tình ai có đậm đà?. Phải chăng vì in thiếu dấu hỏi cuối câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” mà sách giáo viên lớp 11 Bộ 2, tập 2 hoàn toàn không đề cập đến chi tiết này, trong khi đó ở sách Bài tập Bộ 1, tập 2 lại đưa vào một ý lớn để hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy? “Mỗi khổ thơ trong bài thơ chứa đựng một câu hỏi. Những câu hỏi này đã giúp độc giả nhận ra được tiếng nói trữ tình sâu thẳm của bài thơ. Với câu hỏi đầu tiên vốn có dáng dấp của một lời tự nhắc Sao anh không về chơi thôn Vĩ? ta nghe được niềm xốn xang trong lòng nhân vật trữ tình khi kỉ niệm về Huế, về thôn Vĩ được đánh thức một cách đột ngột. Còn câu hỏi thứ hai Có chở trăng về kịp tối nay? cho thấy nhân vật dần chìm sâu vào mặc cảm về thân phận và tự thấy mình là kẻ “chậm chân”, “lỡ chuyến” giữa cuộc đời. Câu hỏi xuất hiện cuối bài Ai biết tình ai có đậm đà? ẩn ngụ một chút hoài nghi, một chút trách móc, vừa thoáng vẻ cam chịu, vừa nhói lên khát vọng sống khôn cùng”3Những bài Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11 là những bài thơ hay, tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, thể hiện khá rõ nét đặc trưng cơ bản của thơ lãng mạn. Nhưng ở mỗi nhà thơ; mỗi bài thơ; những đặc trưng đó được thể hiện với những sắc thái riêng biệt, độc đáo tùy thuộc vào đối tượng, hoàn cảnh riêng, cảm xúc, quan niệm nghệ thuật, tài năng và cá tính sáng tạo của từng nhà thơ. Chẳng hạn, nỗi buồn và cô đơn là một nét chung được thể hiện ở hầu hết các nhà Thơ mới nhưng tâm trạng, cảm xúc đó được biểu hiện khác nhau qua các tác giả cũng như ở các bài thơ khác nhau của cùng một tác giả. Nếu người đọc bắt gặp ở bài Thơ duyên một nỗi buồn nhè nhẹ, phảng phất của một thanh niên mới lớn ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cô gái nhưng vẫn e dè ngần ngại vì "lần đên và những người am hiểu về Thơ mới. Cái mới của Thơ mới được biểu hiện trước hết ở Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư.. nhưng có thể nói được tập trung thể hiện rõ nét và tiêu biểu nhất trong thơ Xuân Diệu. Phải chăng chọn Xuân Diệu là tác gia duy nhất của Thơ mới, các tác giả biên soạn sách muốn nhấn mạnh đến những cái mới mà các tác giả Thơ mới đã đạt được? Từ suy nghĩ đó, chúng tôi cho rằng, giảng về Xuân Diệu, thơ Xuân Diệu, và cả những nhà Thơ mới khác, cần phải nhấn mạnh những cái mới trong thơ của họ so với những nhà thơ trước đó. Nói cách khác, giảng về Thơ mới, nhất thiết phải giúp cho học sinh thấy được cái mới trong thơ họ so với thơ Trung đại Việt Nam. Riêng với Xuân Diệu, không chỉ thấy rõ cái mới trong thơ ông so với các nhà thơ Trung đại mà còn cần chỉ rõ cái mới đó so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời. Trong quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu có một vai trò hết sức quan trọng. Ông được các nhà phê bình văn học cùng thời nhận xét là người mang đến cho Thơ mới nhiều cái mới nhất Vũ Ngọc Phan, Người mới nhất trong những nhà Thơ mới Hoài Thanh. Cái mới trong thơ Xuân Diệu được thể hiện trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người đến những cách tân táo bạo trong hình thức nghệ thuật thơ ca... Những đổi mới của thơ Xuân Diệu trong giai đoạn 1930-1945 gắn liền với quan niệm nghệ thuật của ông về con người và thế giới. Là một nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu có ít nhiều điểm tương đồng với các nhà Thơ mới. Nếu như các nhà Thơ mới đề cao cái tôi, ý thức sâu sắc về cá nhân thì Xuân Diệu cũng không vượt ra ngoài qui luật chung đó của thời đại nhưng con người cá nhân trong thơ Xuân Diệu cũng có những nét riêng không lẫn vào đâu được, đó “là Một, là Riêng, là Thứ Nhất” như ông quan niệm. Cũng như các nhà Thơ mới, ông cũng thể hiện con người với nhiều ước mơ, mộng tưởng, cô đơn, lạc loài nhưng điều quan trọng trong thơ ông là con người đó đồng thời cũng gắn bó sâu xa, máu thịt với cuộc đời thường nhật, biểu hiện một khát vọng sống mãnh liệt, nồng nàn, tha thiết. Xuân Diệu đã cảm nhận thế giới vượt ra ngoài thông lệ so với những nhà thơ của quá khứ cũng như nhiều nhà thơ đương thời. Những sự vật vốn trừu tượng, vô hình thường hiện lên một cách sinh động, cụ thể trong mối tương quan, tổng hòa của các giác quan. Riêng trên bình diện ngôn ngữ thơ ca, Xuân Diệu có những điểm mới, rất sáng tạo, lạ lùng, mà đương thời không ít người chê là ngô nghê, lai căng, mất gốc...Quả thật, nhiều câu thơ của Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của sự diễn đạt của câu văn Pháp. Trong thơ Xuân Diệu có hàng loạt những từ ngữ mới mẻ nhưng cũng chỉ những từ ngữ ấy mới diễn đạt được cái mới trong tâm hồn thi sĩ của nhà thơ Nhan sắc ơi, bình minh quá, tháng giêng cười, tuôn âu yếm, lùa mơn trớn, rượu nơi mắt, gấm trong lòng, chùm mong nhớ, khóm yêu đương, hoa kỹ nữ, gió phong lưu, tình thổi gió, trăng mối lái, trăng vú mộng, tắt nắng đi, buộc gió lại.. 5

phong trào thơ mới lớp 11