THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 20, 21, 22 Thầy Dương Anh Sơn Bài 20 BÁT MUỘN 撥 悶 Thập tải trần ai ám ngọc trừ, 十載塵埃暗玉除 Bách niên thành phủ bán hoang khư. 百年城府半荒墟 Yêu ma trùng điểu cao phi tận, 么麼虫鳥高飛盡 Trữ uế càn khôn huyết chiến dư. 滓濊乾坤血戰餘 Tang tử binh tiền thiên lý lệ, 桑梓兵前千里淚 Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư. 親朋燈下數行書 Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi 1. Cuộc đời - Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu là Ức Trai. Nhà thơ ngồi trên con thuyền giữa đêm thanh tịnh êm ả không có gió to sóng lớn thì dẫu thuyền có đi cũng trôi nhẹ nhàng không nổi lên chìm xuống được. Nếu thuyền mà nổi lên chìm xuống thì thơ cũng bí rị luôn, có đâu được bài "Tạm biệt Phong Nha" hay như thế. Cái chìm cái nổi ở đây cũng là trăng. Đài thanh Vĩnh Hạng u. Sủng di tân ái đoạt, Lệ lạc cố tình lưu. Đề điểu kinh tàn mộng, Phi hoa giảo độc sầu. Tự liên xuân sắc bãi, Đoàn phiến phục nghinh thu." Dịch thơ - Trang Y Hạ "Trường Môn cỏ biếc lối đi Thâm u Vĩnh Hạng xanh rì rêu phong Ái ân bị cướp đau lòng Châu rơi tình cũ nhớ mong đêm dài Mộng khuya sợ tiếng chim bay Những bài thơ tháng 9 với biết bao cảm xúc bâng khuâng, dịu êm của mùa thu, tiết trời tháng 9. Những bài thơ hay viết cho cô gái tháng 9 với bao cảm xúc nhẹ nhàng và trong veo, mong cho cô gái tháng 9 của tôi sẽ thật vui, thật hạnh phúc. ĐÊM tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021 Tựa: Tô Thẩm Huy; Tranh bìa: Phạm Cung tạo thành một thực tại huyền ảo. Đọc Đêm của Nguyễn Thị Khánh Minh để cảm nhận ngôn ngữ thơ tinh tuyền của tác giả và những hình ảnh sáng tạo như dưới cái 253 bài tập trắc nghiệm Mệnh đề - Tập hợp có đáp án (toán đại số lớp 10) học sinh giỏi,39,Cabri 3D,2,Các nhà Toán học,128,Câu đố Toán học,83,Câu đối,3,Cấu trúc đề thi,15,Chỉ số thông minh,4,Chuyên đề Toán,289,Công thức Thể tích,11,Công thức Toán,102,Cười nghiêng EtS8VJc. ƯỜ NG ĐẠ Ơ TR TRƯỜ ƯỜNG ĐẠII HỌC CẦN TH THƠ ÂN VĂN KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH NHÂ Ữ VĂN BỘ MÔN NG NGỮ ÙY LAM MAI TH THỊỊ TH THÙ MSSV 6106400 NỘI DUNG VÀ NGH Ệ THU ẬT NGHỆ THUẬ ÊN THI TẬP CỦA NGUY ỄN DU THANH HI HIÊ NGUYỄ Lu Luậận văn tốt nghi nghiệệp đạ đạii học Ng ữ Văn Ngàành Ng Ngữ ng dẫn ThS. TẠ ĐỨ C TÚ Cán bộ hướ ướng ĐỨC ơ, năm 2013 Cần Th Thơ 0 NG TỔNG QU ÁT ĐỀ CƯƠ ƯƠNG QUÁ ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích, yêu cầu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1. NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ Sơ lược văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX Tình hình văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX Vị trí của chữ Hán trong sáng tác văn chương giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX Về tác gia Nguyễn Du Vài nét về cuộc đời Sự nghiệp sáng tác Về tập thơ Thanh Hiên thi tập CH ƯƠ NG 2. NỘI DUNG THANH HI ÊN THI TẬP CHƯƠ ƯƠNG HIÊ Cuộc sống xa quê hương, vất vả, bệnh tật và những triết lí về sự sống, mong muốn hành lạc, thoát tục Cuộc sống xa quê hương, vất vả, bệnh tật với cái nghèo đeo đẳng Triết lí sự sống đời người và mong muốn hành lạc, thoát tục Tâm sự của Nguyễn Du qua tập thơ 1 Tâm sự của người lo âu, đau buồn khi công nghiệp chưa thành mà đầu đã bạc Nỗi nhớ quê hương da diết Sự thông cảm, thấu hiểu số phận con người tài hoa Hình ảnh thiên nhiên mang tâm trạng con người CH ƯƠ NG 3. NGH Ệ THU ẬT THANH HI ÊN THI TẬP CHƯƠ ƯƠNG NGHỆ THUẬ HIÊ Hình tượng nghệ thuật trong thơ Thời gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật Không gian sinh hoạt, hoạt động Không gian lữ thứ, lưu lạc Ngôn ngữ Ngôn ngữ trong câu Cách sử dụng hư từ và từ xưng hô độc đáo ẦN KẾT LU ẬN PH PHẦ LUẬ ỆU THAM KH ẢO TÀI LI LIỆ KHẢ MỤC LỤC 2 ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU ọn đề tài 1. Lí do ch chọ Nguyễn Du là nhà thơ của thế kỉ XVIII, tác giả của cuốn truyện thơ Nôm nổi tiếng – Truyện Kiều. Đi vào lòng người đọc bằng những vần thơ dân tộc, Nguyễn Du chiếm một vị trí quan trọng trên thi đàn văn học Việt Nam, là một trong những đại thi hào cổ điển Việt Nam. Ngoài tác phẩm Đoạn Trường tân thanh ông vẫn còn nhiều sáng tác khác, đặc biệt là mảng sáng tác thơ bằng chữ Hán. Nếu Truyện Kiều là kiệt tác văn chương kết tinh từ những tinh hoa văn hóa và truyền thống dân tộc thì thơ chữ Hán lại là những vần thơ chân thành về cuộc đời của nhà thơ. Vậy mà gần như người ta không nhớ đến nó, không nghĩ về nó, có thể gì chữ Hán không phải là chữ của người Việt và sự thật có rất ít người biết chữ Hán, ngoại trừ các sĩ tử, vua quan ngày trước. Thực tế, thơ chữ Hán Nguyễn Du thật đáng để ta quan tâm, với ba tập thơ chữ Hán ở đây xin nói về Thanh Hiên thi tập. Thanh Hiên thi tập là một trong ba tập thơ chữ Hán, chiếm 78 bài thơ trong 249 bài thơ chữ Hán tính chung ba tập. Đúng với tính chất ở ba tập giọng thơ chủ đạo là buồn nhưng cái buồn không gây nhàm chán cho người đọc và cái buồn ấy đáng để cho chúng ta xem xét tìm hiểu nhiều vấn đề. Thanh Hiên thi tập là cảm xúc tự thán của nhà thơ, những lời tâm tình làm xao động lòng người, không phải và không cần biết nhiều về chữ Hán mà chúng ta vẫn có thể đọc nó ở phần dịch thơ cũng có thể thấu hiểu nỗi đau thiên tài. Hoàn cảnh thời đại chi phối con người rất lớn Nguyễn Du cũng vậy, trong Thanh Hiên thi tập chúng ta bắt gặp vô số những lần ông buồn thương, tiếc nhớ, chán chường bằng cách riêng của mình ông đã đưa nó vào thơ để những nỗi niềm hòa tan vào từng từ ngữ và dâng khắp tập thơ. Tuy vậy, ông vẫn giữ đúng những niêm luật, quy phạm trong thơ chữ Hán, nhà thơ ấy không để lòng mình làm xáo trộn thơ văn mà lời tâm sự của ông vẫn đi vào thơ rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà đầy tinh tế, không có sự gò ép, vi phạm nào. Nguyễn Du từng thốt lên trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như? Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, 3 Người đời ai khóc Tố Như chăng? Không đợi đến ba trăm năm, hậu thế đã khóc vì Nguyễn Du, khóc rất nhiều, họ khóc vì nàng Kiều có cuộc đời đau khổ, khóc cho nàng Tiểu Thanh có số phận ngắn ngủi, khóc cho thân phận nhân tài. Không ít những công trình nghiên cứu, những con người miệt mài tìm lại sáng tác của ông, tuy nhiên chủ yếu là những công trình về tác phẩm Truyện Kiều. Bài nghiên cứu của chúng tôi chọn đề tài là Nội dung và nghệ thuật trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du với mong muốn nhắc cho hậu thế đừng mải mê đi trau chuốt về mỗi Thúy Kiều mà quên đi Nguyễn Du còn cả thơ chữ Hán, đặc biệt là Thanh Hiên thi tập, tập thơ đáng được trân trọng, gìn giữ, thông qua đó nói lên sự quan tâm của con người hiện tại cũng như tấm lòng của hậu thế đó với nhà thơ thiên tài này. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Du một trong những trụ cột của thơ ca trung đại Việt Nam, người có cống hiến to lớn cho sự sáng tạo và phát triển ngôn ngữ dân tộc, người để lại đỉnh cao với kiệt tác Truyện Kiều và các sáng tác bằng chữ Hán đồ sộ. Trong những năm qua, những người nghiên cứu, khảo sát tìm hiểu các tác phẩm của Nguyễn Du không phải là ít, nhưng việc tìm hiểu thơ chữ Hán thì còn chậm và rất ít. Mặc dù vậy, mỗi công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du đều đã đưa ra những vấn đề lớn mang tầm khái quát, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tập Thanh Hiên vẫn ít ỏi có thể kể đến n với th ơ ch ữ Hán Nguy Cuốn Đế Đến thơ chữ Nguyễễn Du do Ngô Viết Dinh tuyển chọn và biên tập với suy nghĩ “Nếu chúng ta không đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du và Văn Chiêu hồn thì ta tự làm nghèo hồn mình ở phía cánh bướm cụ Tiên Điền đã bỏ hoa vào nằm nghiêng trong sách đang lật mở nói cùng ta… như tri âm tri kỉ” [10; tr. 6]. Công trình từ nhiều tác giả này là một trong những đóng góp quan trọng có liên quan đến Thanh Hiên thi tập, đặc biệt về mặt nội dung. ơ cổ điển Vi Cuốn Ba nh nhàà th thơ Việệt Nam của Xuân Diệu, nhắc đến tác giả Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán, công trình nêu rõ ý nghĩa của mảng thơ chữ Hán của nhà thơ và việc tìm hiểu nhà thơ Nguyễn Du qua các sáng tác bằng chữ Hán. Cuốn Nguy Nguyễễn Du tác gi giảả và tác ph phẩẩm với một số bài viết có liên quan đến tập thơ Thanh Hiên 4 ơ ch ữ Hán của Hoài Thanh, người Tâm tình Nguy Nguyễễn Du qua một số bài th thơ chữ nghiên cứu đã dẫn dắt chúng ta đi vào thơ chữ Hán Nguyễn Du qua những bài thơ tiêu biểu chủ yếu lấy từ tập Thanh Hiên, Hoài Thanh không có những nhận xét riêng về thơ chữ Hán mà muốn “tìm Tố Như để thấy Nguyễn Du, để soi vào văn Kiều và Văn Chiêu Hồn; yêu thương quốc văn, yêu thương những tài tử lớn, họ vượt qua những hạn chế của thời đại cũ, đóng góp tiếng nói lớn cho dân tộc Việt Nam, cho nhân loại như Nguyễn Du.” [11; tr. 61] ới nh ơ ch ữ Hán của Công trình Nguy Nguyễễn Du và th thếế gi giớ nhâân vật của ông trong th thơ chữ Nguyễn Huệ Chi người nghiên cứu đã đi vào từng nhân vật của Nguyễn Du, có người hát rong, có ca kĩ, những quan lại… và cả bản thân Nguyễn Du dựa trên những cơ sở đó để khẳng định “Thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc đường nét vô cùng phong phú đó, con người nhà thơ sẽ hiện ra vừa dạt dào yêu thương vừa bừng bừng căm giận. Đấy là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du, từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kì lạ của hầu hết tác phẩm của ông mà ngày nay chúng ta vẫn đọc mải mê không biết chán.” [1; tr. 88] ơ ch ữ Hán Nguy Công trình Th Thơ chữ Nguyễễn Du của Mai Quốc Liên là công trình tập thơ nghiên cứu cả phần nội dung và nghệ thuật từ ba tập thơ chữ Hán. Tác giả khẳng định giá trị mà thơ chữ Hán mang lại “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [11; tr. 130] ơ ch ữ Hán của Trương Chính, công Công trình Tâm sự của Nguy Nguyễễn Du qua th thơ chữ trình tìm hiểu về Nguyễn Du không phải chỉ dựa vào gia phả mà còn dựa vào những bài thơ chữ Hán của ông, khẳng định sự tinh tế trong sáng tác văn chương của tác giả, thái độ Nguyễn Du đối với các triều đại và những nỗi niềm không bày tỏ cùng ai. ững bài th ơ ch ữ Hán của Đào Xuân Qúy, người nghiên Nguy Nguyễễn Du trong nh nhữ thơ chữ cứu đã đưa ra những ý kiến của mình về phần thơ chữ Hán Nguyễn Du thông qua một số bài thơ cụ thể để khẳng định “Thơ Nguyễn Du không phải là một loại thơ thù tạc, tiêu khiển. Thơ Nguyễn Du là tất cả tâm hồn và tư tưởng của người. Vì vậy, người đọc 5 Nguyễn Du cũng không thể hời hợt, chỉ một lúc mà mong hiểu được chỗ sâu xa của tác giả, mà bắt buộc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm. Và càng chiêm nghiệm, suy nghĩ bao nhiêu lại càng thấy hay, càng thấy thâm thúy bấy nhiêu. Càng đọc Nguyễn Du chúng ta lại càng sung sướng, tự hào mà nhận ra rằng Có được Nguyễn Du, đó chính là một niềm vui lớn của dân tộc.” [11; tr. 129] ơ ch ữ Hán Nguy Cuốn Đặ Đặcc điểm ngh nghệệ thu thuậật th thơ chữ Nguyễễn Du của Lê Thu Yến là công trình góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là một thành tựu rực rỡ song song với Truyện Kiều. 250 bài thơ là kết qủa những suy tư, trăn trở, dặn vặt, bi thiết của cả một đời người. 250 bài thơ còn là một thể nghiệm nghiên túc và độc đáo, những sáng tạo nghệ thuật cho thấy Nguyễn Du có những hướng đi riêng, khác với các nhà văn khác.” [20; tr. 274] Đây là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Du đứng ở góc độ thi pháp học. Công trình mang đến những hiểu biết mới mẻ cho người đọc về những đặc sắc nghệ thuật thi pháp thơ chữ Hán Nguyễn Du. Các công trình trên đây là những nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến Thanh Hiên thi tập riêng về việc nghiên cứu tập thơ này một cách độc lập thì chưa có nghiên cứu nào. ch, yêu cầu 3. Mục đí đích, Nghiên cứu đề tài Nội dung và nghệ thuật Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du chúng tôi hướng tới những mục tiêu Từ trước đến nay, khi nhắc đến Nguyễn Du người ta thường chỉ nhớ đến Truyện Kiều mà quên đi ông vẫn còn ba tập chữ Hán. Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán đầu tay của Nguyễn Du viết trong những năm lưu lạc tha hương, nó là cuốn nhật kí của nhà thơ. Đi vào tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của tập thơ để làm sáng tỏ những đặc sắc của tập thơ. Tìm hiểu về cách sử dụng chữ Hán và việc sáng tạo ngôn từ của Nguyễn Du để góp phần vào việc nghiên cứu thơ chữ Hán nói riêng, nghiên cứu cách dùng chữ Hán của người Việt xưa nói chung. Đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu tác phẩm của một danh nhân đất Việt. Đồng thời, phục vụ việc học tập và nghiên cứu cho những thế hệ sau, đó cũng là định hướng cho việc nghiên cứu những đề tài về Nguyễn Du và thơ chữ Hán sau này. 6 ạm vi nghi 4. Ph Phạ nghiêên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tìm đọc những tác phẩm trong tập Thanh Hiên thi tập, có nhiều bản khác nhau, chúng tôi chọn bản Thơ chữ Hán Nguyễn Du in lại theo bản 1969 do cụ Lê Thước và Trương Chính chủ biên. Bên cạnh tìm đọc văn bản chính chúng tôi cũng tìm hiểu và nghiên cứu thêm những công trình bài viết có liên quan về nhà thơ, thơ chữ Hán và đặc biệt những bài luận bàn về tập Thanh Hiên thi tập. ươ ng ph áp nghi 5. Ph Phươ ương phá nghiêên cứu Bài nghiên cứu của chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn học vào để tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của tập thơ. Bài nghiên cứu vận dụng thường xuyên một số thao tác Phương pháp phân tích thao tác này là thao tác được sử dụng nhiều nhất trong bài viết. Việc tìm hiểu để đưa ra những lí lẽ, luận điểm, dẫn chứng ở từng phần để đi sâu vào nội dung và nghệ thuật phần quan trọng nhất của Luận văn. Phương pháp tổng hợp Sau quá trình phân tích và đưa ra những những dẫn chứng cho lí lẽ, luận điểm của mình chúng tôi sử dụng thao tác tổng hợp để rút ra những nhận định mang tính chất khái quát về hai vấn đề chính về nội dung cũng như nghệ thuật trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du mà bài viết muốn làm rõ. Phương pháp liệt kê Dùng thao tác liệt kê cũng làm một phương pháp rất được quan tâm trong bài viết. Ở đây thao tác này được vận dụng thể hiện liệt kê từng khổ thơ làm dẫn chứng cho quá trình phân tích những luận điểm, đó cũng là những bằng chứng làm thuyết phục người đọc và xem bài viết. 7 ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1. NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ u th Sơ lượ ượcc văn học Vi Việệt Nam nửa cu cuốối th thếế kỉ XVIII nửa đầ đầu thếế kỉ XIX u Tình hình văn học Vi Việệt Nam nửa cu cuốối th thếế kỉ XVIII nửa đầ đầu th thếế kỉ XIX Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là giai đoạn xảy ra mâu thuẫn sâu sắc trong lòng xã hội Việt Nam. Nội chiến giữa hai đàng và các phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra liên tục. Nguyễn Ánh lên ngôi tình hình càng trở nên tệ hơn khi những chính sách của triều đại nhà Nguyễn không hề quan tâm đến nhân dân mà chủ yếu chỉ phục vụ gia tộc. Điều kiện lịch sử đã ảnh hưởng một phần không nhỏ đến văn học Việt Nam, lực lượng sáng tác thời kì này đa dạng, không chỉ là vua quan, kẻ sĩ, mà còn cả tầng lớp bình dân. Các tác giả có thể kể đến là Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Ngô Gia Văn Phái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Tự Đức… Nội dung chính của thơ văn thời kì này phê phán chế độ phong kiến suy tàn, chà đạp thân phận con người với những tác phẩm như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác vẽ lại bức tranh của phủ chúa Trịnh sa hoa lộng lẫy và tất cả những người trong đấy không ai làm gì chỉ lo ăn chơi. Không khí ở đây hoàn toàn khác với sự sống của dân chúng bên ngoài. Các tác phẩm lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến thối nát, những người phụ nữ phải xa chồng vì cuộc chiến phi nghĩa, những nàng cung nữ suốt đời bị giam cầm trong cung điện Mây mưa mấy giọt chung tình Đỉnh trầm hương khóa một cành mẫu đơn. Cung oán ng ngââm - Nguyễn Gia Thiều Nội dung thứ hai trong sáng tác thơ văn giai đoạn này là sự thông cảm sâu sắc với những số phận con người. Đặc biệt là thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả dành cả 8 một phần sáng tác nói về những số phận con người bất hạnh. Truyện Kiều một kiệt tác văn chương Việt Nam, qua tác phẩm này Nguyễn Du đã tố cáo xã hội phong kiến chà đạp lên thân phân người phụ nữ, những số phận con người tài hoa, bạc mệnh. Còn một nội dung cũng quan trọng trong sáng tác giai đoạn này là mảng sáng tác tình yêu và cuộc sống trần tục, với các truyện thơ Nôm nổi tiếng Hoa Tiên, Bích câu kì ngộ, Từ Thức… tình yêu tự do được ca ngợi, phản đối lại hôn nhân thời phong kiến, ủng hộ tình yêu cá nhân. Tình yêu mãnh liệt, trong sáng, táo bạo Cửa ngoài vội rũ rèm the Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình Truy Truyệện Ki Kiềều - Nguyễn Du Về mặt nghệ thuật, ngôn ngữ sử dụng cho sáng tác giai đoạn này là cả chữ Nôm và chữ Hán, chữ Nôm giai đoạn này chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Các thể thơ, lục bát, song thất lục bát, Đường luật, phú… Văn xuôi chữ Hán, văn tế… đa dạng nhiều thể loại. Đây là giai đoạn lịch sử xảy ra nhiều biến cố. Vấn đề chủ nghĩa nhân đạo trở thành một trong những khuynh hướng chi phối sáng tác văn chương giai đoạn này. Đây cũng là thời kì văn học chống lại những tư tưởng Nho giáo lỗi thời, lạc hậu, lên tiếng bênh vực những con người bị vùi lấp dưới vũng bùn nô lệ, đặc biệt tình yêu cá nhân có được một sự đồng điệu của các tác giả. Thời kì này có nhiều biến cố lịch sử nhưng cũng là thời kì văn học trung đại lên ngôi với những tác phẩm văn học trở thành mẫu mực, có giá trị vĩnh cữu cho nền văn học Việt Nam. ữ Hán trong sáng tác văn ch ươ ng giai đoạn nửa Vị tr tríí của ch chữ chươ ương u th cu cuốối th thếế kỉ XVIII, nửa đầ đầu thếế kỉ XIX “Chữ Hán là loại chữ đơn âm tiết. Mỗi chữ tương đương với một tiếng, giống tiếng Việt cho nên đơn vị căn bản của chữ Hán là tự chữ. Chữ ấy được tạo bởi các nét và sắp xếp trong một ô vuông theo trật tự cố định.” [18; tr. 9] Chữ Hán đi vào nước ta với mục đích đồng hóa người Việt của các triều đại Trung Hoa ngày trước, từ lâu nó đã mặc nhiên tồn tại và được dùng chính thức bởi các vua quan, kẻ sĩ những tầng lớp trên thời phong kiến hầu hết người bình dân đều không biết chữ này. Chữ Hán được dùng thi cử, chiếu, biểu của vua quan. Từ lâu, chữ Hán 9 chiếm vị trí độc tôn nhưng người Việt hiển nhiên có tinh thần dân tộc sâu sắc, chữ Hán chỉ là chữ tạm bợ và một nước không thể không có chữ chính thức của nước mình, với những ý nghĩ đó chữ Nôm xuất hiện tuy chỉ là dựa vào văn tự Hán nhưng nó được phổ biến ở dân chúng, người bình dân nhưng không được triều đình chấp nhận nên dù có từ lâu cũng chẳng được dùng đến như chữ Hán, thi cử, cáo thị… vẫn là chữ Hán như trước. Đến giai đoạn nửa cuối XVIII nửa đầu XIX, chữ Hán bị “thất sủng” hơn trước, những bước tiến quan trọng khi vua Quang Trung lên ngôi, cho sử dụng chữ Nôm là chữ chính thức của người Việt. Nhưng sau đó, nhà Nguyễn thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi bãi bỏ những chính sách nhà Tây Sơn chữ Nôm lại quay về vị trí của nó. Mặc dù vậy, chữ Nôm cũng đã có sự phát triển mạnh. Chữ Hán dù ít ai biết nhưng những đóng góp về mặt chữ vẫn hết sức quan trọng, thơ ca của chúng ta chủ yếu là bằng chữ Hán với những sáng tác thơ văn chữ Hán như Đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, những tác phẩm của vua Lê Thánh Tông… Đến đây, dù chữ Hán đã mai một nhưng còn rất nhiều tác giả biết và sáng tác thơ văn bằng chữ Hán, như thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Đặng Trần Côn, văn xuôi chữ Hán của Lê Hữu Trác … và đó cũng là những tác phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt thi ca Việt Nam nói chung, thơ ca thế kỉ XVIII nói riêng. Về tác gia Nguy Nguyễễn Du ộc đờ Vài nét về cu cuộ đờii Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều Kính gửi cụ Nguy K Nguyễễn Du - Tố Hữu “Cụ” được nhắc đến ở câu thơ trên chính là Nguyễn Du. Truyện Kiều là tác phẩm làm nên tên tuổi thi hào cũng là tác phẩm đánh dấu sự phát triển về tư tưởng quan niệm của nhà thơ. Nguyễn Du không có một cuộc đời êm ả, sung túc như bao đứa con quý tộc, từ lúc sinh ra đất nước trải qua quá nhiều biến cố. Vì vậy, nhà thơ phải sống một cuộc đời chìm nổi, phiêu bạt, đôi khi cơm ăn không no, áo mặc không ấm, giấc mộng công danh cũng hóa thành ảo mộng. Nhà thơ Nguyễn Du sinh năm 1765, tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê 10 nhà thơ ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng nhà thơ được sinh trưởng tại Thăng Long. Nguyễn Du thuộc dòng dõi quý tộc. Ông thân sinh là Nguyễn Nghiễm, nhà thơ, nhà nghiên cứu sử học, quan văn và là Tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Năm 1775, người anh lớn cùng mẹ Nguyễn Du mất, năm sau cha ông cũng qua đời, hai lễ tang liên tiếp khiến bà quá đau buồn nên lâm bệnh ba năm sau bà mất, năm ấy bà Trần Thị Tần mới 39 tuổi. Nguyễn Du từ đây bắt đầu đến nương tựa nhà người anh khác mẹ là Nguyễn Khản một Tả thị lang Bộ hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây, sau vì liên quan đến chính trị với Trịnh Tông nên bị gián chức và bị giam. Đây là thời gian gia đình Nguyễn Du gặp nhiều biến cố, mặc dù vậy vì tuổi còn nhỏ nhà thơ vẫn đi học và đi thi. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đỗ Tam trường, sau thì không thi tiếp nữa, về sau ông giữ chức quan võ ở Thái Nguyên, chức này là do lúc trước Nguyễn Du có một người cha nuôi họ Hà sau khi ông mất Nguyễn Du được kế nhiệm. Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống bỏ chạy theo tàn quân xâm lược sang Trung Quốc. Ba anh em Nguyễn Du cũng chạy theo nhưng không kịp. Từ đấy, nhà thơ bắt đầu về ở quê vợ Thái Bình, sống nhờ nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn một thần dân của Tây Sơn. Cũng trong thời gian này nhà thơ có âm mưu chống lại Tây Sơn nhưng việc không thành, ông còn bị bắt giam một thời gian. Những ngày tháng sau này Nguyễn Du về quê Tiên Điền sống, đến thu năm 1802, Nguyễn Ánh đánh đổ vương triều Tây Sơn lên ngôi vua gọi Nguyễn Du ra làm quan. Đây là thời gian công nghiệp của nhà thơ có nhiều thăng tiến. Tháng 8 năm 1802, ông được bổ tri huyện Phù Dung rồi được thăng chức tri phủ Thường Tín. Năm 1803, ông được cử lên Nam Quan đón tiếp sứ nhà Thanh. Năm 1805, ông được thăng Đông các học sĩ tước Du đức hầu, vào Phú Xuân làm quan. Năm 1814, ông được thăng làm Cần Chánh điện học sĩ, rồi được cử đi sứ Trung Quốc, lo việc cống tuế. Năm 1814, ông trở về Phú Xuân. Năm 1815, ông được đặc cách thăng chức hữu tham tri bộ lễ. Năm 1820, vua Minh Mệnh lên ngôi, Nguyễn Du được chọn làm chánh sứ cầu phong. Nhưng khi chuẩn bị đi thì bệnh dịch hoành hành, ông mất vì bị nhiễm bệnh dịch năm ấy, Nguyễn Du thọ 55 tuổi. 11 Có lẽ vì cuộc đời có quá nhiều thăng trầm, biến cố ngay từ khi còn nhỏ nên mặc dù xuất thân quý tộc nhưng Nguyễn Du là một con người thấu hiểu lẽ đời, yêu thương những người nghèo khổ. Nhà thơ đã thể hiện mình thật sự là một nhân tài, với mỗi lời thơ đều thấm nhuần một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Văn thơ Nguyễn Du nói lên tiếng nói phản kháng cái xấu, bênh vực những số phận đau khổ, những bậc anh hùng khí tiết trong xã hội. Mỗi bài thơ thể hiện phong cách một nhân tài thi ca. Nguyễn Du là nhà thơ đã có những đóng góp hết sức tích cực cho nền văn học Việt Nam nói chung, thơ ca trung đại Việt Nam nói riêng. Sự nghi nghiệệp sáng tác Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Du đã cống hiến hết vào thơ ca dân tộc, mỗi tác phẩm là một lời tâm tình sâu sắc gửi cho con người, cả người sống và người chết, thơ ông đúc kết ý nghĩa cuộc sống, thấu hiểu cái con người cần với những dồn nén của họ trong tư tưởng phong kiến lỗi thời. Thơ văn Nguyễn Du có âm hưởng của “cái tôi” cá nhân vang lên, đặc biệt là Truyện Kiều và phần thơ chữ Hán. Tuy ít sáng tác mà vẫn đạt được độ thâm thúy, thấm nhuần của thơ văn và lòng người. Những sáng tác tiêu biểu của nhà thơ Truyện Kiều hay còn tên gọi khác là Đoạn trường tân thanh dựa vào bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa. Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi. Câu chuyện được Nguyễn Du kể lại bằng thể thơ dân tộc thơ lục bát, câu chuyện không phải dịch lại mà trên cơ sở chỉ lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài nhân để viết một câu chuyện của riêng mình. Truyện Kiều là kiệt tác văn chương đến vạn đời sau vẫn không sao khám phá hết. Tác phẩm này theo một số nhà nghiên cứu cho là được sáng tác khoảng năm 1805 đến 1809. Thác lời trai phường nón bài thơ tỏ tình của chàng trai phường nón, được viết theo thể lục bát mang âm hưởng và phong vị dân gian. Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu viết theo lối văn tế. Văn chiêu hồn bài văn tế được viết để tịnh độ những cô hồn đã khuất. Thơ chữ Hán, có ba tập thơ Thanh Hiên thi tập có 78 bài thơ Nam trung tạp ngâm có 40 bài thơ 12 Bắc hành tạp lục với 131 bài thơ Cả ba tập thơ mang giọng chủ đạo là buồn. Không gian thường là buổi chiều cô đơn hay đêm vắng lặng. Một số bài thơ còn có phương hướng thoát li, ẩn dật nhưng chỉ là mong muốn, thực tế nhà thơ chưa bao giờ từ bỏ đời sống hiện tại của mình. ơ Thanh Hi Về tập th thơ Hiêên thi tập Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán đầu tiên, được sáng tác trong thời kì ở Thái Bình. Thanh Hiên thi tập có 78 bài thơ, có thể chia thành ba giai đoạn “Mười năm gió bụi từ năm 1786 đến khi trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh. Dưới chân núi Hồng từ năm 1796 đến năm 1802. Giai đoạn cuối ra làm quan ở Bắc Hà từ năm 1802 đến cuối năm 1804” [17; tr. 15, 16]. Thanh Hiên thi tập là tập thơ tâm sự của Nguyễn Du trong những năm tháng sống ở Thái Bình và ở Tiên Điền. Phần lớn âm điệu của tập thơ là buồn, cuộc sống ở Thái Bình cực khổ, khó khăn, phải ăn nhờ ở đậu người ta, những bài thơ ở giai đoạn này mang cảm giác trĩu nặng sự chán ngán, đôi lúc bi quan nhà thơ muốn đi ở ẩn, muốn hành lạc nhưng sự thật đó chỉ là dự tính không bao giờ được thực hiện. Thời gian ra làm quan cũng chẳng vui vẻ gì hơn, tuy đường quan lộ thênh thang hơn nhiều người nhưng vẫn không khởi sắc về tinh thần và vật chất, chức tước không làm thay đổi được cuộc đời nhà thơ, ông vẫn buồn, than thở về cuộc đời, về sự sống. Nguyễn Du nhìn thấy cuộc đời con người chỉ là một bể khổ. Phần lớn nội dung thơ mang tính chất tâm tình, riêng tư, đôi lúc bi quan, chán nản. Thanh Hiên thi tập hiện nay không được in riêng mà in cùng với hai tập Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục các tác giả thường gọi chung là tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Hiện có 9 văn bản, bản dịch phần thơ chữ Hán Nguyễn Du, ở đây chúng tôi nêu lên những bản được xem đầy đủ nhất do các tác giả tập hợp có thể kể đến là Bản Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước, Trương Chính, gồm 249 bài thơ, trong đó có 78 bài của tập Thanh Hiên. Cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Đào Duy Anh tập hợp, có 79 bài của Thanh Hiên thi tập. Cuốn Nguyễn Du toàn tập của Mai Quốc Liên, có 78 bài thơ của tập Thanh Hiên. Trong Luận văn này chúng tôi chọn bản Thơ chữ Hán Nguyễn Du do hai cụ Lê Thước và Trương Chính biên soạn. 13 ƯƠ NG HAI. NỘI DUNG CỦA THANH HI ÊN THI TẬP CH CHƯƠ ƯƠNG HIÊ ộc sống xa qu ng, vất vả, bệnh tật và nh ững tri Cu Cuộ quêê hươ ương, nhữ triếết lí về sự ốn hành lạc, tho sống, mong mu muố thoáát tục ộc sống xa qu ng, vất vả, bệnh tật với cái ngh Cu Cuộ quêê hươ ương, nghèèo đeo ng đẳ đẳng Thanh Hiên thi tập là tiếng nói tận đáy lòng của Nguyễn Du, lời tâm sự mộc mạc của con người phải sống, phải đi cùng những năm tháng khó khăn, những điều ấy trở thành nỗi ám ảnh trong sáng tác văn chương của Nguyễn Du giai đoạn này. Cuộc đời gặp lúc loạn li chỉ mong tính mệnh bảo toàn. Tấm thân phó mặc mưa gió, nhà thơ không mơ ước lầu cao vọng nguyệt chỉ hi vọng bản thân hết bệnh, trong nhà có thuốc trị. Trong bài thơ Mạn hứng I nhà thơ nói về thân thế mình như một gánh nặng tang bồng 百 年 身 世 委 風 塵 旅 食 江 津 又 海 津 Bách niên thân thế ủy phong trần Lữ thực giang tân hựu hải tân Kiếp phong trần trăm năm thân thế, Khắp bờ sông bãi bể lang thang. Cuộc đời trải qua bao vất vả khiến Nguyễn Du - một chàng công tử quý tộc danh gia trở thành một người không nơi về, phải trải qua những cơn đau ốm không thuốc men, lời tâm sự chân tình của nhà thơ “Ngựa còm xe nhỏ, thẹn anh láng giềng” thẹn vì bản thân sống đời trôi nổi, thẹn vì mình chẳng có công cán gì chỉ còn lại “Sống trong trời đất kiếp bình bồng”. Nhà thơ than trách và bày tỏ cuộc sống hiện tại 行 腳 無 根 任 轉 蓬 江 南 江 北 一 囊 空 Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng Giang nam giang bắc nhất nang không Chân không bén rễ bước bông lông, 14 Đất bắc trời nam túi rỗng không. M Mạạn hứng II Bản thân không phải là người thích cuộc sống xê dịch vậy mà trong lúc này nhà thơ tự ví mình chỉ như “ngọn cỏ bồng” không một nơi cố định luôn luôn phải dịch chuyển, nhưng không phải đi với túi đầy mà là “một chiếc túi rỗng không”, không biết đi đâu, về đâu hết nam lại bắc, đầu sông cuối sông. Trong khi đó bệnh tật kéo đến từng ngày, trong bài thơ Xuân dạ Nguyễn Du viết 江 湖 病 到 經 時 久 風 雨 春 隨 一 夜 深 Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm Ốm liệt giang hồ bao tháng trải, Xuân về mưa gió suốt đêm trong. Rõ ràng, tên tác phẩm là Xuân dạ nhưng đọc đoạn thơ ta chẳng thấy mùa xuân ở đâu chỉ thấy không gian u ám mờ mịt bao trùm và trong cái không gian ấy có một con người bệnh tật, một người xa quê lâu mang nặng nỗi đau tinh thần lẫn thể xác, con người một mình trong đêm xuân, cô đơn giữa không gian bao la, chỉ thấy nỗi đau khổ trào dâng. Bức tranh hiện thực về cuộc sống nhà thơ hiện ra trước mắt người đọc, bài Thu chí 簾 垂 小 閣 西 風 動 雪 暗 窮 村 曉 角 哀 Liêm thùy tiểu các tây phong động Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai Gió tây gác nhỏ rèm rung động, Còi sớm làng xa tuyết phủ đầy. Một cuộc sống không ai mong đến với mình lại đến với một Nguyễn Du, một du khách đã mệt mỏi và “Tuế Giang nằm bệnh suốt năm chầy” ốm đau, bệnh tật đối với một người bình thường đã là cơ cực, đối với Nguyễn Du một người phải sống lênh 15 đênh không chốn nương thân phải ăn nhờ ở đậu lại càng đau khổ hơn, nỗi ám ảnh về căn bệnh đã đi theo ông – tác giả Truyện Kiều không còn sức chống lại chỉ biết sống cùng nó. Một chỗ khác, sự khốn khó của cuộc sống được lột trần qua câu thơ “Chớm lạnh đã hay không áo khổ” nhà thơ còn nghe được cả đâu đó “Tiếng ai nệm vải bông chiều đưa” đó là câu thơ đầy hi vọng, một sự khát khao gia đình, chờ mong một tấm áo khi mùa rét bắt đầu vì con người ấy rất cô đơn và trơ trọi giữa cuộc sống. Sự ngao ngán trước cái nghèo, trước đây dù chỉ là một viên quan nhỏ nhưng cuộc sống cũng không khó khăn còn hiện tại nhà thơ thốt lên tiếng nói tâm tình của một kẻ khất thực “Áo cơm buồn những chịu ơn người”. Con người trước kia sống với văn chương, yêu văn chương, chữ nghĩa giờ đây lại nói “Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống”, tâm sự đau đớn nếu không phải gì cuộc sống quẩn bách, tuyệt vọng thì chẳng bao giờ nhà thơ nói ra điều ấy, vì với nhà thơ văn chương là bạn đường là lẽ sống nhưng lẽ sống ấy giờ đây bị nhấn chìm vì mưu sinh, giờ thì ngoài sách ra ông chẳng có gì trong nhà, sách trở thành “Sách chồng cạnh gối đỡ thân mệt”. Nguyễn Du không thể như Hộ - Đời thừa của nhà văn Nam Cao có thể viết những thứ văn sau khi đọc xong người ta cũng quên đi để kiếm tiền, Nguyễn Du chỉ có thể dùng thơ văn để bày tỏ lòng mình. Từ một người yêu lẽ sống, quý cuộc đời giờ đây trở nên cay cú với bản thân vì chẳng làm được gì lúc này, cô đơn trong đêm lạnh, người khách dò theo từng bước đi thời gian mà cất lên những lời xé lòng trong bài Trệ khách 滯 客 淹 留 南 海 中 寂 寥 良 夜 與 誰 同 Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng Miền Nam đất khách nằm dài, Đêm thanh vắng vẻ ấy ai bạn cùng? Hay 風 塵 隊 裡 留 皮 骨 客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬 Phong trần đội lí lưu bì cốt 16 Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng. Phong trần còn mảnh xương da, Bù xù trên gối tóc xòa mái sương. Người khách với tấm thân chỉ còn da bọc xương trong hàng nghìn người phong trần không ai biết đến. Thậm chí, trong bài thơ đôi khi nhà thơ nói về cuộc sống không có cả một bầu rượu “Nhà nghèo Bắc Hải rượu không là thường” và ông chỉ có gió trăng làm bạn nhưng gió trăng lại không biết nói năng gì làm không khí cả không gian trở nên tĩnh lặng. Mỗi bài thơ là cung bậc cảm xúc của Nguyễn Du về cuộc sống bản thân, đó là lời tâm sự chân thành của con người lúc đói nghèo, khi bệnh tật, trong buồn đau kiếp người. Tuy tuổi ông chỉ ngoài ba mươi nhưng tóc bạc và bệnh tật luôn đeo đẳng tấm thân bệnh tật ấy sống trong lo âu, buồn bả trước cuộc đời. Trong bài Ngọa bệnh I nhà thơ nói đến cái ốm đau những căn bệnh đeo bám, ông tự nhận mình là người hay bệnh tật lại có tinh thần không thư thái 多 病 多 愁 氣 不 舒 十 旬 困 臥 桂 江 居 Đa bệnh đa sầu khí bất thư Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư Bệnh sầu, sầu bệnh cứ liên miên, Sông Quế nằm co mấy tháng liền Nhà nghèo lại bệnh tật đến nổi chuột phải leo lên giường gặm sách vì trong nhà chẳng có gì để ăn được “bếp không đỏ lửa” thậm chí, nhìn hoa cúc ngoài vườn tưởng có thể ăn được. Ngoài sách ra Nguyễn Du chẳng có gì, cuộc sống của ông lúc này thật đáng buồn. Cô đơn, quạnh hiu lúc gian truân và dù sau nhiều năm tháng vất vả, nhà thơ ra làm quan triều Nguyễn, cuộc sống cũng chẳng khấm khá hơn, những chi tiết ông nói về cuộc sống những ngày sau này, vẫn bần cùng, vẫn một bầu không rượu, làm thân lữ khách, cuộc sống khắc khoải lo âu, vụng đường sinh kế, nghe có vẻ không hợp lí những đó là sự thật, tuy được mời về làm quan nhưng ông luôn giữ thân vì sợ sẽ gây ra bất trắc, ông phải luồng cúi trước những quan lớn khác, thậm chí phải nhỏ nhẹ với những tên lính của mình. Nguyễn Du không phải nhút nhát mà ông đang sống rất hiểu đời vì cuộc đời thế sự giờ đây đổi dời không còn cái gọi là công lí. Tác giả Thanh 17 Hiên thi tập thấu hiểu và chia sẻ số phận với những con người cực khổ, những người dân bần cùng, nghèo đói, tấm lòng của ông đi vào thơ như lời trần tình, đồng điệu. Chính cuộc sống khổ cực lúc đầu mà ông xa rời nhân dân nhưng cũng vì nó sau này ông lại hiểu dân yêu dân, thấu hiểu những đau khổ của họ cũng chính như đau khổ vất vả mình trải qua. Cuộc sống bần hàn nhưng vẫn giữ mình thanh liêm, đôi khi nhà không đủ no nhưng không nghĩ đến chuyện phải lạm dụng quan chức để thu lợi cho mình dù là nhỏ. Chính tính cách đó góp phần làm cho những tác phẩm của nhà thơ sống mãi với thời gian. ườ Tri Triếết lí sự sống đờ đờii ng ngườ ườii và mong mu muốốn hành lạc, tho thoáát tục Trải qua cuộc dâu bể đời người, Nguyễn Du có khuynh hướng hành lạc thoát tục, điều này thể hiện trong sáng tác của ông nhưng một minh chứng cho một con người phải đến đường cùng dù đôi khi đường cùng đó là mình tự đi vào 何 能 落 髮 歸 林 去 臥 聽 松 風 響 半 雲 Hà năng lai phát quy lâm khứ Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân Những ước cạo đầu vào núi ẩn, Đàn thông nằm lắng tiếng lưng trời. ự th T Tự tháán II Cái ước mơ tưởng chừng như đơn giản với bao người mà đối với Nguyễn Du thật khó, làm sao ông có thể “gọt tóc” khi bản thân còn mang nặng món nợ hồng trần, làm sao nghe được tiếng thông reo khi trong lòng chất đầy những nỗi lo, tâm đang đau xé những chuyện cuộc đời. Nhà thơ thường hay nhắc đến chuyện kiếp sau, nghiệp chướng của đạo Phật để bày tỏ tâm trạng, trong bài Ức gia huynh có đoạn “Gặp nhau âu đành kiếp khác chờ” hay chữ nghiệp của con người trong Thôn dạ 老 去 未 知 生 計 拙 障 消 時 覺 夙 心 空 Lão khứ vị tri sinh kế chuyết 18 Chướng tiêu thời giác túc tâm không Lối sinh kế già còn khờ dại, Nghiệp chướng tiêu, thư thái đòi khi. Nguyễn Du quan niệm sống là trả nợ kiếp trước, vì kiếp trước tạo nghiệp nên kiếp này phải trả, trả xong tâm mới tịnh nhưng đó chỉ là một lí do để sống trên đời và để Nguyễn Du tiếp tục sống. Trong Điếu La thành giả ca nhà thơ nhắc chuyện nàng ca nữ, cô bị mắc nghiệp phấn son nên chết đi vẫn phải trả, sống không ai hiểu mình chết về cõi hư không tìm người bầu bạn “Suối vàng đành bạn với Kì Khanh”, nhà thơ đang nói chuyện ca kĩ mà ngỡ như đang nói chính mình rất đau xót 胭 脂 不 洗 生 前 障 風 月 空 留 死 後 名 Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng, Phong nguyệt không lưu tử hậu danh. Phấn son lúc sống chưa rồi nợ, Trăng gió đời sau luống để dành. Một bài thơ khác nhà thơ lại nghĩ đến những chuyện trăm năm, nghìn năm, ông nghĩ đến vòng tuần hoàn của con người, xem chuyện đời là một vòng quay lẩn quẩn không lối thoát, già yếu bệnh tật, nghèo túng là chuyện thường vậy mà vẫn thấy buồn vì nhà thơ không làm được, không bỏ được, dù ở ẩn tâm cũng chẳng yên, chỉ có say, say để quên đi việc đời 百 期 但 得 終 朝 醉 世 事 浮 雲 真 可 哀 Bách kì đãn đắc chung triêu túy Thế sự phù vân chân khả ai Trăm năm miễn được say hoài, Kìa làn mây nổi việc đời khá thương. Đố Đốii tửu Dù biết đó là những chuyện của đất trời, chuyện của thế nhân dù muốn thoát 19 Thanh Hiên Thi Tập là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn. Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông Trong đó nổi bật nhất là nhóm thơ Làm Quan Ở Bắc Hà được nhiều bạn đọc quan tâm nhất. Hãy cùng chúng tôi cảm nhận bài thơ đặc sắc này nhé! Nội dung bài viết1 Ký hữu II 寄2 Sơ nguyệt 初月3 La Phù giang thuỷ các độc toạ 羅浮江水閣獨坐4 Ngẫu hứng kỳ 1 偶興其一5 Ngẫu hứng kỳ 2 偶興其二6 Thanh minh ngẫu hứng 清明偶興7 Mộ xuân mạn hứng 暮春漫興8 Thanh Quyết giang vãn diểu 清決江晚眺9 Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn 同廬路上遙見柴山10 Đồng Lung giang 同籠江11 Lạng Sơn đạo trung 諒山道中12 Quỷ Môn đạo trung 鬼門道中13 Đề Nhị Thanh động 題二青洞14 Vọng Phu thạch 望夫石15 Xuân tiêu lữ thứ 春宵旅次16 Khổng tước vũ 孔雀舞 Ký hữu II 寄 鴻山山月一輪明, 千里長安此夜情。 太璞不全眞面目, 一州何事小功名。 有生不帶公侯骨, 無死終尋豕鹿盟。 羨殺北窗高臥者, 平居無事到虛靈。 Ký hữu II Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh, Thiên lý Trường An thử dạ tình. Thái phác bất toàn chân diện mục, Nhất châu hà sự tiểu công danh. Hữu sinh bất đới công hầu cốt, Vô tử chung tầm thỉ lộc minh. Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả, Bình cư vô sự đáo hư linh. Dịch nghĩa Đêm nay trên núi Hồng Lĩnh, trăng sáng vằng vặc, Ở Trường An xa ngàn dặm, tâm tình tôi thật ngao ngán. Tôi như viên ngọc trong đá không giữ vẹn được mặt thật, Chút công danh nho nhỏ ở một châu có đáng gì? Sinh ra vốn chẳng mang sẵn cốt công hầu, chưa chết, Nhất định có ngày lại làm bạn với hươu nai. Rất thèm được như bạn được nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc, Thảng thích chẳng có gì bận đến tâm linh. Sơ nguyệt 初月 吸得陽光纔上天, 初三初四未團圓。 嫦娥妝鏡微開匣, 壯士彎弓不上弦。 千里關山無改色, 一庭霜露共愁眠。 徘徊正憶鴻山夜, 卻在羅浮江水邊。 Sơ nguyệt Hấp đắc dương quang tài thướng thiên, Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên. Thường Nga trang kính vi khai hạp, Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền. Thiên lý quan san vô cải sắc, Nhất đình sương lộ cộng sầu miên. Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ, Khước tại La Phù giang thuỷ biên. Dịch nghĩa Trăng hút được ánh sáng mặt trời, vừa mới ló lên, Mồng ba mồng bốn chưa tròn. Tấm gương của chị Hằng Nga chưa hé nắp, Vành cung tráng sĩ chưa mắc dây. Ở nơi nghìn dặm quan san, trăng vẫn không thay đổi vẻ đẹp, Đầy sân sương móc, cùng trăng nằm ngủ, lòng buồn hiu. Bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dưới chân núi Hồng, Bây giờ đã ở trên bến sông La Phù La Phù giang thuỷ các độc toạ 羅浮江水閣獨坐 水閣閣下江水深, 水閣閣上人沉吟。 悠悠雲影變晨夕, 滾滾浪花浮古今。 塵世百年開眼夢, 鴻山千里倚欄心。 徘徊對影獨無語, 白髮數莖垂我襟。 La Phù giang thuỷ các độc toạ Thuỷ các các hạ, giang thuỷ thâm, Thuỷ các các thượng, nhân trầm ngâm. Du du vân ảnh biến thần tịch, Cổn cổn lãng hoa phù cổ câm kim. Trần thế bách niên khai nhãn mộng, Hồng sơn thiên lý ỷ lan tâm. Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ, Bạch phát sổ hành thuỳ ngã khâm. Dịch nghĩa Ngồi một mình trên thuỷ các sông La Phù, Dưới thuỷ các, nước sông sâu, trên thuỷ các, người ngồi trầm ngâm. Bóng mây lững thững sớm chiều biến đổi, Lớp sóng cuồn cuộn kéo cả cổ kim đi. Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở, Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nơi ngàn dặm. Một mình bồi hồi ngắm bóng, chẳng nói năng gì, Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống tà áo. Ngẫu hứng kỳ 1 偶興其一 初更鼓角五更雞, 終夜徘徊思轉迷。 明月滿天何故故, 西風吹我正凄凄。 愓殘物性悲鳧脛, 刻雒天真失馬蹄。 若遇山中糜鹿友, 煙霞舊話不堪提。 Ngẫu hứng kỳ 1 Sơ canh cổ giốc, ngũ canh kê, Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê. Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố, Tây phong xuy ngã chính thê thê. Thương tàn vật tính bi phù hĩnh, Khắc lạc thiên chân thất mã đề. Nhược ngộ sơn trung my lộc hữu, Yên hà cựu thoại bất kham đề. Dịch nghĩa Canh một nghe tiếng trống, tiếng tù và, Canh năm nghe tiếng gày gáy, suốt đêm bồi hồi, nghĩ quẩn nghĩ quanh. Làm sao trăng sáng đầy trời thế mãi? Gió tây thổi, ta thấy lạnh buốt. Làm hại tính vật, thương cho chân con vịt nước, Xuyên tạc thiên chân, mà mất đạo lý mã đề. Nếu gặp bạn hươu nai trong núi, Khó mà nói đến chuyện mây khói ngày trước nữa. Ngẫu hứng kỳ 2 偶興其二 一淚天涯洒斷蓬, 羅浮江上起秋風。 黃雲白水兩相照, 急管悲絲萬不同。 六尺拘縻長役役, 四時拋擲太匆匆。 征鴻影裏家何在, 隱隱瓊雲三兩峰。 Ngẫu hứng kỳ 2 Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng, La Phù giang thượng khởi thu phong. Hoàng vân bạch thuỷ lưỡng tương chiếu, Cấp quản bi ty vạn bất đồng. Lục xích câu my trường dịch dịch, Tứ thì phao trịch thái thông thông. Chinh hồng ảnh lý gia hà tại? Ẩn ẩn Quỳnh vân am lưỡng phong. Dịch nghĩa Ở nơi chân trời, thương mình như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ, Gió thu đã nổi trên sông La Phù. Mây vàng và nước trắng soi chiếu lẫn nhau, Tiếng sáo gấp, tiếng tơ buồn không hoà hợp chút nào! Tấm thân sáu thước bị câu thúc, cứ vất vả mãi, Bốn mùa đi qua tựa thoi đưa, sao chóng thế! Trong bóng chim hồng bay đằng kia, nhà mình ở đâu? Chỉ thấy thấp thoáng vài ba ngọn núi trong đám mây phía Quỳnh Côi. Thanh minh ngẫu hứng 清明偶興 東風晝夜動江城, 人自悲悽草自青。 春日有身非少壯, 天涯無酒對清明。 村歌初學桑麻語, 野哭時聞戰伐聲。 客舍含愁已無限, 莫敎茅草近階生。 Thanh minh ngẫu hứng Đông phong trú dạ động giang thành, Nhân tự bi thê, thảo tự thanh. Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng, Thiên nhai vô tửu đối thanh minh Thôn ca sơ học tang ma ngữ, Dã khốc thời văn chiến phạt thanh. Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn, Mạc giao mao thảo cận giai sinh. Dịch nghĩa Gió đông thổi qua toà thành bên sông suốt ngày đêm. Người buồn thì cứ buồn, cỏ xanh thì cứ xanh. Ngày xuân, mình có thân nhưng không còn trẻ nữa, Ở góc trời, không có rượu uống trong tiết thanh minh. Câu hát thôn dã giúp ta hiểu được tiếng nói của kẻ trồng gai, trồng dâu. Ngoài đồng nội thỉnh thoảng nghe tiếng người khóc như buổi chiến tranh. Ở nơi lữ xá đã buồn quá rồi, Chớ để cỏ săng mọc gần thêm! Mộ xuân mạn hứng 暮春漫興 一年春色九十日, 拋擲春光殊可憐。 浮世功名看鳥過, 閒庭節字帶鶯遷。 側身不出有形外, 千歲長懮未死前。 浮利榮名終一散, 何如及早學神仙。 Mộ xuân mạn hứng Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật, Phao trịch xuân quang thù khả liên. Phù thế công danh khan điểu quá, Nhàn đình tiết tự đới oanh thiên. Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại, Thiên tuế trường ưu vị tử tiền. Phù lợi vinh danh chung nhất tán, Hà như cập tảo học thần tiên? Dịch nghĩa Một năm có chín mươi ngày xuân, Để cho cảnh xuân trôi qua, thật đáng tiếc! Công danh ở đời nào khác cánh chim bay vút, Trước sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà thay đổi. Tấm thân không thể thoát ra khỏi vòng hữu hình, Chưa chết, cứ lo mãi chuyện nghìn năm. Danh lợi hão huyền cuối cùng tiêu tan hết, Sao bằng hãy sớm theo đạo thần tiên! Thanh Quyết giang vãn diểu 清決江晚眺 浮橋盡處出平田, 歷歷青山在眼前。 古徑樵歸明月擔, 潮門魚送夕陽船。 茫茫遠水三春樹, 落落人家兩岸煙。 極目鄉關在何處, 征鴻數點白雲邊。 Thanh Quyết giang vãn diểu Phù kiều tận xứ xuất bình điền, Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền. Cổ kính tiều quy minh nguyệt đảm, Triều môn ngư tống tịch đương thuyền. Mang mang viễn thuỷ tam xuân thụ, Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên. Cực mục hương quan tại hà xứ? Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên. Dịch nghĩa Hết chiếc cầu nổi là đến cánh đồng, Trước mắt thắy rõ từng đợt núi xanh. Dưới bóng trăng, bác tiều gánh củi về trên con đường mòn, Lúc chiều tà, nhà chài đẩy chài ra khơi nhân khi triều lên. Phía xa, nước sông mờ mịt lẫn bóng cây mùa xuân, Khói bay từ mấy nóc nhà lác đác hai bên bờ sông. Cố ráng mắt nhìn xem quê hương mình ở chỗ nào? Chỉ thấy vài chấm nhỏ, đó là những cánh chim hồng bay lên đám mây trắng. Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn 同廬路上遙見柴山 柴山山上多浮雲, 柴山山下石磷磷。 同廬路上西翹首, 秀色蒼然來照人。 歷歷樓臺天外見, 微微鐘鼓月中聞。 青衫走遍紅塵路, 猿鶴何從認舊鄰。 Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn Sài Sơn sơn thượng đa phù vân, Sài Sơn sơn hạ thạch lân lân. Đồng Lư lộ thượng tây kiều thủ, Tú sắc thương nhiên lai chiếu nhân. Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến, Vi vi chung cổ nguyệt trung văn. Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ, Viên hạc hà tòng nhận cựu lân? Dịch nghĩa Trên đỉnh núi Thầy, lắm mây nổi, Dưới chân núi Thầy, đá lởm chởm. Đi trên đường Đồng Lư, ngoảnh mặt nhìn về phía tây, Màu xanh đẹp của núi chiếu vào người. Xa xa, lâu đài hiện lên rõ mồn một, Nghe văng vẳng tiếng chuông tiếng trống trong ánh trăng. Kẻ mặc chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng, Con vược, con hạc làm sao nhận ra người xóm cũ? Đồng Lung giang 同籠江 同籠江水去悠悠, 今古閒愁不住流。 沙嘴殘蘆飛白鷺, 隴頭落月臥寒牛。 亂山翠接孤城暮, 水竹寒生小店秋。 羨爾野鷗隨水去, 浮生勞碌幾時休? Đồng Lung giang Đồng Lung giang thuỷ khứ du du, Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu. Sa chuỷ tàn lô phi bạch lộ, Lũng đầu lạc nguyệt ngoạ hàn ngưu. Loạn sơn thuý tiếp cô thành mộ, Thuỷ trúc hàn sinh tiểu điếm thu. Tiễn nhĩ dã âu tuỳ thuỷ khứ, Phù sinh lao lục kỷ thì hưu? Dịch nghĩa Nước sông Đồng Lung chảy xa thăm thẳm, Mối sầu kim cổ cũng trôi theo dòng nước không ngừng. Đàn cò trắng bay trên đám lau tàn cuối bãi cát, Con trâu nằm đầu ghềnh dưới bóng trăng tà lạnh lẽo. Buổi chiều, những ngọn núi xanh lởm chởm tiếp liền với toà thành trơ trọi, Đương tiết thu, mấy khóm tre nước toả hơi lạnh quanh túp lều nhỏ. Thấy bầy chim âu lềnh bềnh trôi theo mặt nước mà thèm, Cuộc sống vất vả bao giờ mới thôi? Lạng Sơn đạo trung 諒山道中 萬木山前可卜居, 白雲在岫水通渠。 山僧對竹兩無恙, 牧豎騎牛一不如。 影裏鬚眉看老矣, 夢中松菊憶歸與。 坐家村叟多閒事, 只為平生不讀書。 Lạng Sơn đạo trung Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư, Bạch vân tại tụ thuỷ thông cừ. Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng, Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như. Ảnh lý tu my khan lão hỷ, Mộng trung tùng cúc ức quy dư. Toạ gia thôn tẩu đa nhàn sự, Chỉ vị bình sinh bất độc thư. Dịch nghĩa Có thể dựng ngôi nhà trước rừng cây kia mà ở, Trên núi có mây trắng, lại có khe nước chảy. Nhà sư và khóm trúc, cả hai đều vô sự, Chẳng ai bằng em bé cưỡi trâu ung dung kia! Soi gương nhìn mày râu, biết mình đã già rồi, Trong mộng thấy tùng cúc, lại nhớ đến chuyện muốn về vườn. Ông già thôn quê ngồi trong nhà nhàn rỗi quá, Được như thế, chỉ vì bình sinh không đọc sách. Quỷ Môn đạo trung 鬼門道中 鬼門石徑出雲根, 征客南歸欲斷魂。 樹樹東風吹送馬, 山山落月夜啼猿。 中旬老態逢人懶, 一路寒威杖酒溫。 山塢何家大貪睡, 日高猶自掩柴門。 Quỷ Môn đạo trung Quỷ môn thạch kính xuất vân côn căn, Chinh khách nam quy dục đoạn hồn. Thụ thụ đông phong xuy tống mã, Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên. Trung tuần lão thái phùng nhân lãn, Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn. Sơn ổ hà gia đại tham thuỵ? Nhật cao do tự yểm sài môn. Dịch nghĩa Đường đá ở núi Quỷ Môn từ chân mây đi ra, Lữ khách về nam trông thầy mà kinh hồn. Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn, Trăng tà lặn sau dãy núi, ban đêm nghe tiếng vượn hú. Ta đang độ tuổi trung niên mà đã có vẻ già, rất ngại chuyện thù tiếp, Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm lòng. Trong xóm dưới núi kia, nhà ai ham ngủ thế? Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre còn đóng kín. Đề Nhị Thanh động 題二青洞 盤古初分不記年, 山中生窟窟生泉。 萬般水石擅大巧, 一粒乾坤開小天。 滿境皆空何有相? 此心常定不離禪。 大師無意亦無盡, 俯嘆城中多變遷。 Đề Nhị Thanh động Bàn Cổ sơ phân bất ký niên, Sơn trung sinh quật, quật sinh tuyền. Vạn ban thuỷ thạch thiện đại xảo, Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên. Mãn cảnh giai không hà hữu tướng? Thử tâm thường định bất ly thiền. Đại sư vô ý diệc vô tận, Phủ thán thành trung đa biến thiên. Dịch nghĩa Từ Bàn Cổ đến nay, không biết đã bao nhiêu năm rồi, Trong núi có hang, trong hang có suối. Mọi thứ, suối, đá sắp đặt rất khéo, Một hạt càn khôn mở ra một khoảng trời nho nhỏ. Khắp cõi đã là không thì làm gì có tướng? Lòng này thường định không xa rời đạo thiền. Đạo Phật không tâm, không ý bao la vô tận, Cúi nhìn xuống thấy thành có nhiều sự đổi thay mà ngậm ngùi khôn xiết. Vọng Phu thạch 望夫石 石耶人耶彼何人? 獨立山頭千百春。 萬劫杳無雲雨夢, 一貞留得古今身。 淚痕不絕三秋雨, 苔篆長銘一段文。 四望連山渺無際, 獨教兒女擅彝倫。 Vọng Phu thạch Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu thiên bách xuân Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng, Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ, Đài triện trường minh nhất đoạn văn. Tứ vọng liên sơn diểu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện di luân. Dịch nghĩa Đá chăng? Người chăng? Là ai đấy nhỉ? Đứng một mình trên ngọn núi hàng ngàn năm nay. Muôn kiếp không bao giờ có mộng mây mưa, Tấm thân giữ được trinh tiết mãi mãi. Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt, Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng. Nhìn bốn phía núi non từng từng lớp lớp, Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng? Xuân tiêu lữ thứ 春宵旅次 蕭蕭蓬鬢老風塵, 暗裡偏驚物候新。 池草未闌千里夢, 庭梅已換一年春。 英雄心事荒馳騁, 名利營場累笑顰。 人自蕭條春自好, 團城城下一沾巾。 Xuân tiêu lữ thứ Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần, Ám lý thiên kinh vật hậu tân. Trì thảo vị lan thiên lý mộng, Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân. Anh hùng tâm sự hoang trì sính, Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần. Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo, Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân. Dịch nghĩa Mái tóc bạc phơ, cứ phải phong trần mãi, Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ. Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng “cỏ bờ ao”, Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa. Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong, Đường danh lợi làm luỵ đến sự khóc cười. Người thì tiều tuỵ, nhưng xuân vẫn chứ đẹp, Đứng dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn. Khổng tước vũ 孔雀舞 孔雀腑懷毒, 誤服不可醫。 外露文章體, 中藏殺罰機。 人誇容指善, 我惜羽毛奇。 鶴海亦會舞, 不與世人知。 Khổng tước vũ Khổng tước phủ hoài độc, Ngộ phục bất khả y. Ngoại lộ văn chương thể, Trung tàng sát phạt ky. Nhân khoa dung chỉ thiện, Ngã tích vũ mao kỳ. Hạc hải diệc hội vũ, Bất dữ thế nhân tri. Dịch nghĩa Tạng phủ chim công có chất độc, Lỡ ăn nhầm, không có thuốc chữa. Bề ngoài có vẻ tốt đẹp, Nhưng bên trong giấu chất giết người. Người ta khen bộ nó đẹp, Ta thì tiếc cho bộ lông kỳ lạ của nó. Con hạc biển cũng biết múa, Nhưng chẳng để ai thấy. Trên đây đã dành tặng bạn tập thơ Thanh Hiên Thi Tập đặc sắc của Nguyễn Du. Hy vọng các bạn có thể cảm nhận được ngòi bút tài hoa của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi! Theo Tập thơ Làm quan ở Bắc Hà 1802-1804 của Nguyễn Du là giai đoạn 3 trong tập thơ Thanh Hiên thi tập nổi tiếng. Tập thơ chữ hán gồm 18 bài với nhiều chủ đề khác nhau. Mời quý độc giả cùng thưởng thức để hiểu rõ phong cách thơ Nguyễn Du nhé. Nội dung bài viết1 Ký hữu II 寄友 • Gửi bạn II2 Sơ nguyệt 初月 • Trăng non3 La Phù giang thuỷ các độc toạ 羅浮江水閣獨坐 • Ngồi một mình trên lầu cạnh sông La Phù4 Ngẫu hứng kỳ 1 偶興其一 • Ngẫu hứng kỳ 15 Ngẫu hứng kỳ 2 偶興其二 • Ngẫu hứng kỳ 26 Thanh minh ngẫu hứng 清明偶興 • Tiết thanh minh ngẫu hứng7 Mộ xuân mạn hứng 暮春漫興 • Cảm hứng cuối xuân8 Thanh Quyết giang vãn diểu 清決江晚眺 • Chiều ngắm cảnh sông Thanh Quyết9 Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn 同廬路上遙見柴山 • Trên đường Đồng Lư, xa thấy núi Thầy10 Đồng Lung giang 同籠江 • Sông Đồng Lung11 Lạng Sơn đạo trung 諒山道中 • Trên đường đi Lạng Sơn12 Quỷ Môn đạo trung 鬼門道中 • Trên đường qua Quỷ Môn13 Đề Nhị Thanh động 題二青洞 • Đề động Nhị Thanh14 Vọng Phu thạch 望夫石 • Đá Vọng Phu15 Xuân tiêu lữ thứ 春宵旅次 • Đêm xuân lữ thứ16 Điệp tử thư trung 蝶死書中 • Bướm chết trong sách17 Khổng tước vũ 孔雀舞 • Chim công múa18 Độc Tiểu Thanh ký 讀小青記 • Đọc chuyện nàng Tiểu Thanh Ký hữu II 寄友 • Gửi bạn II 寄友 鴻山山月一輪明, 千里長安此夜情。 太璞不全眞面目, 一州何事小功名。 有生不帶公侯骨, 無死終尋豕鹿盟。 羨殺北窗高臥者, 平居無事到虛靈。 Ký hữu II Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh, Thiên lý Trường An thử dạ tình. Thái phác bất toàn chân diện mục, Nhất châu hà sự tiểu công danh. Hữu sinh bất đới công hầu cốt, Vô tử chung tầm thỉ lộc minh. Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả, Bình cư vô sự đáo hư linh. Dịch nghĩa Đêm nay trên núi Hồng Lĩnh, trăng sáng vằng vặc, Ở Trường An xa ngàn dặm, tâm tình tôi thật ngao ngán. Tôi như viên ngọc trong đá không giữ vẹn được mặt thật, Chút công danh nho nhỏ ở một châu có đáng gì? Sinh ra vốn chẳng mang sẵn cốt công hầu, chưa chết, Nhất định có ngày lại làm bạn với hươu nai. Rất thèm được như bạn được nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc, Thảng thích chẳng có gì bận đến tâm linh. Sơ nguyệt 初月 • Trăng non 初月 吸得陽光纔上天, 初三初四未團圓。 嫦娥妝鏡微開匣, 壯士彎弓不上弦。 千里關山無改色, 一庭霜露共愁眠。 徘徊正憶鴻山夜, 卻在羅浮江水邊。 Sơ nguyệt Hấp đắc dương quang tài thướng thiên, Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên. Thường Nga trang kính vi khai hạp, Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền. Thiên lý quan san vô cải sắc, Nhất đình sương lộ cộng sầu miên. Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ, Khước tại La Phù giang thuỷ biên. Dịch nghĩa Trăng hút được ánh sáng mặt trời, vừa mới ló lên, Mồng ba mồng bốn chưa tròn. Tấm gương của chị Hằng Nga chưa hé nắp, Vành cung tráng sĩ chưa mắc dây. Ở nơi nghìn dặm quan san, trăng vẫn không thay đổi vẻ đẹp, Đầy sân sương móc, cùng trăng nằm ngủ, lòng buồn hiu. Bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dưới chân núi Hồng, Bây giờ đã ở trên bến sông La Phù. La Phù giang thuỷ các độc toạ 羅浮江水閣獨坐 • Ngồi một mình trên lầu cạnh sông La Phù 羅浮江水閣獨坐 水閣閣下江水深, 水閣閣上人沉吟。 悠悠雲影變晨夕, 滾滾浪花浮古今。 塵世百年開眼夢, 鴻山千里倚欄心。 徘徊對影獨無語, 白髮數莖垂我襟。 La Phù giang thuỷ các độc toạ Thuỷ các các hạ, giang thuỷ thâm, Thuỷ các các thượng, nhân trầm ngâm. Du du vân ảnh biến thần tịch, Cổn cổn lãng hoa phù cổ câm kim. Trần thế bách niên khai nhãn mộng, Hồng sơn thiên lý ỷ lan tâm. Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ, Bạch phát sổ hành thuỳ ngã khâm. Dịch nghĩa Ngồi một mình trên thuỷ các sông La Phù, Dưới thuỷ các, nước sông sâu, trên thuỷ các, người ngồi trầm ngâm. Bóng mây lững thững sớm chiều biến đổi, Lớp sóng cuồn cuộn kéo cả cổ kim đi. Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở, Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nơi ngàn dặm. Một mình bồi hồi ngắm bóng, chẳng nói năng gì, Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống tà áo. Ngẫu hứng kỳ 1 偶興其一 • Ngẫu hứng kỳ 1 偶興其一 初更鼓角五更雞, 終夜徘徊思轉迷。 明月滿天何故故, 西風吹我正凄凄。 愓殘物性悲鳧脛, 刻雒天真失馬蹄。 若遇山中糜鹿友, 煙霞舊話不堪提。 Ngẫu hứng kỳ 1 Sơ canh cổ giốc, ngũ canh kê, Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê. Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố, Tây phong xuy ngã chính thê thê. Thương tàn vật tính bi phù hĩnh, Khắc lạc thiên chân thất mã đề. Nhược ngộ sơn trung my lộc hữu, Yên hà cựu thoại bất kham đề. Dịch nghĩa Canh một nghe tiếng trống, tiếng tù và, Canh năm nghe tiếng gày gáy, suốt đêm bồi hồi, nghĩ quẩn nghĩ quanh. Làm sao trăng sáng đầy trời thế mãi? Gió tây thổi, ta thấy lạnh buốt. Làm hại tính vật, thương cho chân con vịt nước, Xuyên tạc thiên chân, mà mất đạo lý mã đề. Nếu gặp bạn hươu nai trong núi, Khó mà nói đến chuyện mây khói ngày trước nữa. Ngẫu hứng kỳ 2 偶興其二 • Ngẫu hứng kỳ 2 偶興其二 一淚天涯洒斷蓬, 羅浮江上起秋風。 黃雲白水兩相照, 急管悲絲萬不同。 六尺拘縻長役役, 四時拋擲太匆匆。 征鴻影裏家何在, 隱隱瓊雲三兩峰。 Ngẫu hứng kỳ 2 Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng, La Phù giang thượng khởi thu phong. Hoàng vân bạch thuỷ lưỡng tương chiếu, Cấp quản bi ty vạn bất đồng. Lục xích câu my trường dịch dịch, Tứ thì phao trịch thái thông thông. Chinh hồng ảnh lý gia hà tại? Ẩn ẩn Quỳnh vân am lưỡng phong. Dịch nghĩa Ở nơi chân trời, thương mình như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ, Gió thu đã nổi trên sông La Phù. Mây vàng và nước trắng soi chiếu lẫn nhau, Tiếng sáo gấp, tiếng tơ buồn không hoà hợp chút nào! Tấm thân sáu thước bị câu thúc, cứ vất vả mãi, Bốn mùa đi qua tựa thoi đưa, sao chóng thế! Trong bóng chim hồng bay đằng kia, nhà mình ở đâu? Chỉ thấy thấp thoáng vài ba ngọn núi trong đám mây phía Quỳnh Côi. Thanh minh ngẫu hứng 清明偶興 • Tiết thanh minh ngẫu hứng 清明偶興 東風晝夜動江城, 人自悲悽草自青。 春日有身非少壯, 天涯無酒對清明。 村歌初學桑麻語, 野哭時聞戰伐聲。 客舍含愁已無限, 莫敎茅草近階生。 Thanh minh ngẫu hứng Đông phong trú dạ động giang thành, Nhân tự bi thê, thảo tự thanh. Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng, Thiên nhai vô tửu đối thanh minh Thôn ca sơ học tang ma ngữ, Dã khốc thời văn chiến phạt thanh. Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn, Mạc giao mao thảo cận giai sinh. Dịch nghĩa Gió đông thổi qua toà thành bên sông suốt ngày đêm. Người buồn thì cứ buồn, cỏ xanh thì cứ xanh. Ngày xuân, mình có thân nhưng không còn trẻ nữa, Ở góc trời, không có rượu uống trong tiết thanh minh. Câu hát thôn dã giúp ta hiểu được tiếng nói của kẻ trồng gai, trồng dâu. Ngoài đồng nội thỉnh thoảng nghe tiếng người khóc như buổi chiến tranh. Ở nơi lữ xá đã buồn quá rồi, Chớ để cỏ săng mọc gần thêm! Mộ xuân mạn hứng 暮春漫興 • Cảm hứng cuối xuân 暮春漫興 一年春色九十日, 拋擲春光殊可憐。 浮世功名看鳥過, 閒庭節字帶鶯遷。 側身不出有形外, 千歲長懮未死前。 浮利榮名終一散, 何如及早學神仙。 Mộ xuân mạn hứng Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật, Phao trịch xuân quang thù khả liên. Phù thế công danh khan điểu quá, Nhàn đình tiết tự đới oanh thiên. Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại, Thiên tuế trường ưu vị tử tiền. Phù lợi vinh danh chung nhất tán, Hà như cập tảo học thần tiên? Dịch nghĩa Một năm có chín mươi ngày xuân, Để cho cảnh xuân trôi qua, thật đáng tiếc! Công danh ở đời nào khác cánh chim bay vút, Trước sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà thay đổi. Tấm thân không thể thoát ra khỏi vòng hữu hình, Chưa chết, cứ lo mãi chuyện nghìn năm. Danh lợi hão huyền cuối cùng tiêu tan hết, Sao bằng hãy sớm theo đạo thần tiên! Thanh Quyết giang vãn diểu 清決江晚眺 • Chiều ngắm cảnh sông Thanh Quyết 清決江晚眺 浮橋盡處出平田, 歷歷青山在眼前。 古徑樵歸明月擔, 潮門魚送夕陽船。 茫茫遠水三春樹, 落落人家兩岸煙。 極目鄉關在何處, 征鴻數點白雲邊。 Thanh Quyết giang vãn diểu Phù kiều tận xứ xuất bình điền, Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền. Cổ kính tiều quy minh nguyệt đảm, Triều môn ngư tống tịch đương thuyền. Mang mang viễn thuỷ tam xuân thụ, Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên. Cực mục hương quan tại hà xứ? Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên. Dịch nghĩa Hết chiếc cầu nổi là đến cánh đồng, Trước mắt thắy rõ từng đợt núi xanh. Dưới bóng trăng, bác tiều gánh củi về trên con đường mòn, Lúc chiều tà, nhà chài đẩy chài ra khơi nhân khi triều lên. Phía xa, nước sông mờ mịt lẫn bóng cây mùa xuân, Khói bay từ mấy nóc nhà lác đác hai bên bờ sông. Cố ráng mắt nhìn xem quê hương mình ở chỗ nào? Chỉ thấy vài chấm nhỏ, đó là những cánh chim hồng bay lên đám mây trắng. Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn 同廬路上遙見柴山 • Trên đường Đồng Lư, xa thấy núi Thầy 同廬路上遙見柴山 柴山山上多浮雲, 柴山山下石磷磷。 同廬路上西翹首, 秀色蒼然來照人。 歷歷樓臺天外見, 微微鐘鼓月中聞。 青衫走遍紅塵路, 猿鶴何從認舊鄰。 Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn Sài Sơn sơn thượng đa phù vân, Sài Sơn sơn hạ thạch lân lân. Đồng Lư lộ thượng tây kiều thủ, Tú sắc thương nhiên lai chiếu nhân. Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến, Vi vi chung cổ nguyệt trung văn. Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ, Viên hạc hà tòng nhận cựu lân? Dịch nghĩa Trên đỉnh núi Thầy, lắm mây nổi, Dưới chân núi Thầy, đá lởm chởm. Đi trên đường Đồng Lư, ngoảnh mặt nhìn về phía tây, Màu xanh đẹp của núi chiếu vào người. Xa xa, lâu đài hiện lên rõ mồn một, Nghe văng vẳng tiếng chuông tiếng trống trong ánh trăng. Kẻ mặc chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng, Con vược, con hạc làm sao nhận ra người xóm cũ? Đồng Lung giang 同籠江 • Sông Đồng Lung 同籠江 同籠江水去悠悠, 今古閒愁不住流。 沙嘴殘蘆飛白鷺, 隴頭落月臥寒牛。 亂山翠接孤城暮, 水竹寒生小店秋。 羨爾野鷗隨水去, 浮生勞碌幾時休? Đồng Lung giang Đồng Lung giang thuỷ khứ du du, Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu. Sa chuỷ tàn lô phi bạch lộ, Lũng đầu lạc nguyệt ngoạ hàn ngưu. Loạn sơn thuý tiếp cô thành mộ, Thuỷ trúc hàn sinh tiểu điếm thu. Tiễn nhĩ dã âu tuỳ thuỷ khứ, Phù sinh lao lục kỷ thì hưu? Dịch nghĩa Nước sông Đồng Lung chảy xa thăm thẳm, Mối sầu kim cổ cũng trôi theo dòng nước không ngừng. Đàn cò trắng bay trên đám lau tàn cuối bãi cát, Con trâu nằm đầu ghềnh dưới bóng trăng tà lạnh lẽo. Buổi chiều, những ngọn núi xanh lởm chởm tiếp liền với toà thành trơ trọi, Đương tiết thu, mấy khóm tre nước toả hơi lạnh quanh túp lều nhỏ. Thấy bầy chim âu lềnh bềnh trôi theo mặt nước mà thèm, Cuộc sống vất vả bao giờ mới thôi? Lạng Sơn đạo trung 諒山道中 • Trên đường đi Lạng Sơn 諒山道中 萬木山前可卜居, 白雲在岫水通渠。 山僧對竹兩無恙, 牧豎騎牛一不如。 影裏鬚眉看老矣, 夢中松菊憶歸與。 坐家村叟多閒事, 只為平生不讀書。 Lạng Sơn đạo trung Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư, Bạch vân tại tụ thuỷ thông cừ. Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng, Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như. Ảnh lý tu my khan lão hỷ, Mộng trung tùng cúc ức quy dư. Toạ gia thôn tẩu đa nhàn sự, Chỉ vị bình sinh bất độc thư. Dịch nghĩa Có thể dựng ngôi nhà trước rừng cây kia mà ở, Trên núi có mây trắng, lại có khe nước chảy. Nhà sư và khóm trúc, cả hai đều vô sự, Chẳng ai bằng em bé cưỡi trâu ung dung kia! Soi gương nhìn mày râu, biết mình đã già rồi, Trong mộng thấy tùng cúc, lại nhớ đến chuyện muốn về vườn. Ông già thôn quê ngồi trong nhà nhàn rỗi quá, Được như thế, chỉ vì bình sinh không đọc sách. Quỷ Môn đạo trung 鬼門道中 • Trên đường qua Quỷ Môn 鬼門道中 鬼門石徑出雲根, 征客南歸欲斷魂。 樹樹東風吹送馬, 山山落月夜啼猿。 中旬老態逢人懶, 一路寒威杖酒溫。 山塢何家大貪睡, 日高猶自掩柴門。 Quỷ Môn đạo trung Quỷ môn thạch kính xuất vân côn căn, Chinh khách nam quy dục đoạn hồn. Thụ thụ đông phong xuy tống mã, Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên. Trung tuần lão thái phùng nhân lãn, Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn. Sơn ổ hà gia đại tham thuỵ? Nhật cao do tự yểm sài môn. Dịch nghĩa Đường đá ở núi Quỷ Môn từ chân mây đi ra, Lữ khách về nam trông thầy mà kinh hồn. Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn, Trăng tà lặn sau dãy núi, ban đêm nghe tiếng vượn hú. Ta đang độ tuổi trung niên mà đã có vẻ già, rất ngại chuyện thù tiếp, Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm lòng. Trong xóm dưới núi kia, nhà ai ham ngủ thế? Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre còn đóng kín. Quỷ Môn quan thuộc khu vục ải Chi Lăng, xã Chi Lăng. Năm 1804 thời nhà Nguyễn, Nguyễn Du trên đường đi sứ sang nhà Thanh, khi qua Chi Lăng đã làm bài thơ này. Theo Việt Hoa thông sứ sử lược của Bế Lãng Ngoạn và Lê Văn Hoè, sứ bộ Việt Nam trên bước đường thiên lý sang Trung Hoa đều dừng tại Quỷ Môn quan trước khi tiến đến ải Nam Quan. Đề Nhị Thanh động 題二青洞 • Đề động Nhị Thanh 題二青洞 盤古初分不記年, 山中生窟窟生泉。 萬般水石擅大巧, 一粒乾坤開小天。 滿境皆空何有相? 此心常定不離禪。 大師無意亦無盡, 俯嘆城中多變遷。 Đề Nhị Thanh động Bàn Cổ sơ phân bất ký niên, Sơn trung sinh quật, quật sinh tuyền. Vạn ban thuỷ thạch thiện đại xảo, Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên. Mãn cảnh giai không hà hữu tướng? Thử tâm thường định bất ly thiền. Đại sư vô ý diệc vô tận, Phủ thán thành trung đa biến thiên. Dịch nghĩa Từ Bàn Cổ đến nay, không biết đã bao nhiêu năm rồi, Trong núi có hang, trong hang có suối. Mọi thứ, suối, đá sắp đặt rất khéo, Một hạt càn khôn mở ra một khoảng trời nho nhỏ. Khắp cõi đã là không thì làm gì có tướng? Lòng này thường định không xa rời đạo thiền. Đạo Phật không tâm, không ý bao la vô tận, Cúi nhìn xuống thấy thành có nhiều sự đổi thay mà ngậm ngùi khôn xiết. Vọng Phu thạch 望夫石 • Đá Vọng Phu 望夫石 石耶人耶彼何人? 獨立山頭千百春。 萬劫杳無雲雨夢, 一貞留得古今身。 淚痕不絕三秋雨, 苔篆長銘一段文。 四望連山渺無際, 獨教兒女擅彝倫。 Vọng Phu thạch Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu thiên bách xuân Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng, Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ, Đài triện trường minh nhất đoạn văn. Tứ vọng liên sơn diểu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện di luân. Dịch nghĩa Đá chăng? Người chăng? Là ai đấy nhỉ? Đứng một mình trên ngọn núi hàng ngàn năm nay. Muôn kiếp không bao giờ có mộng mây mưa, Tấm thân giữ được trinh tiết mãi mãi. Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt, Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng. Nhìn bốn phía núi non từng từng lớp lớp, Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng? Xuân tiêu lữ thứ 春宵旅次 • Đêm xuân lữ thứ 春宵旅次 蕭蕭蓬鬢老風塵, 暗裡偏驚物候新。 池草未闌千里夢, 庭梅已換一年春。 英雄心事荒馳騁, 名利營場累笑顰。 人自蕭條春自好, 團城城下一沾巾。 Xuân tiêu lữ thứ Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần, Ám lý thiên kinh vật hậu tân. Trì thảo vị lan thiên lý mộng, Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân. Anh hùng tâm sự hoang trì sính, Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần. Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo, Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân. Dịch nghĩa Mái tóc bạc phơ, cứ phải phong trần mãi, Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ. Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng “cỏ bờ ao”, Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa. Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong, Đường danh lợi làm luỵ đến sự khóc cười. Người thì tiều tuỵ, nhưng xuân vẫn chứ đẹp, Đứng dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn. Điệp tử thư trung 蝶死書中 • Bướm chết trong sách 蝶死書中 芸窗曾幾染書香, 謝卻風流未是狂。 薄命有緣留簡籍, 殘魂無淚哭文章。 蠹魚易醒繁華夢, 螢火難灰錦繡腸。 聞道也應甘一死, 淫書猶勝為花忙。 Điệp tử thư trung Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương, Tạ khước phong lưu vị thị cuồng. Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch, Tàn hồn vô lệ khốc văn chương. Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng, Huỳnh hoả nan hôi cẩm tú trường. Văn đạo dã ưng cam nhất tử, Dâm thư do thắng vị hoa mang. Dịch nghĩa Bao nhiêu lâu nay nhiễm hương thơm của sách trong thư phòng, Từ bỏ cảnh phong lưu không thể cho là dại. Mệnh tuy bạc, nhưng cũng phải có duyên mới lưu lại với sách, Hồn tàn không có nước mắt mà khóc văn chương. Con mọt sách dễ làm tỉnh mộng phồn hoa, Lửa đom đóm khó đốt cháy tấm lòng gấm vóc. Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam, Ham mê sách còn hơn đắm đuối vì hoa. Khổng tước vũ 孔雀舞 • Chim công múa 孔雀舞 孔雀腑懷毒, 誤服不可醫。 外露文章體, 中藏殺罰機。 人誇容指善, 我惜羽毛奇。 鶴海亦會舞, 不與世人知。 Khổng tước vũ Khổng tước phủ hoài độc, Ngộ phục bất khả y. Ngoại lộ văn chương thể, Trung tàng sát phạt ky. Nhân khoa dung chỉ thiện, Ngã tích vũ mao kỳ. Hạc hải diệc hội vũ, Bất dữ thế nhân tri. Dịch nghĩa Tạng phủ chim công có chất độc, Lỡ ăn nhầm, không có thuốc chữa. Bề ngoài có vẻ tốt đẹp, Nhưng bên trong giấu chất giết người. Người ta khen bộ nó đẹp, Ta thì tiếc cho bộ lông kỳ lạ của nó. Con hạc biển cũng biết múa, Nhưng chẳng để ai thấy. Độc Tiểu Thanh ký 讀小青記 • Đọc chuyện nàng Tiểu Thanh 讀小青記 西湖花苑盡成墟, 獨吊窗前一紙書。 脂粉有神憐死後, 文章無命累焚餘。 古今恨事天難問, 風韻奇冤我自居。 不知三百餘年後, 天下何人泣素如。 Độc Tiểu Thanh ký Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư, Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kỳ oan ngã tự cư. Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch nghĩa Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang, Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi. Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết, Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài. Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời. Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng. Chẳng biết ba trăm năm sau nữa, Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta? Thanh Hiên thi tập là một trong những tập thơ chữ Hán nổi tiếng của Nguyễn Du, tập thơ được chia thành 3 giai đoạn khác nhau, với mỗi giai đoạn là một phong cách thơ đặc sắc. Tập thơ với nội dung chính là phản ánhlên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê – Trịnh. Theo Tags nguyễn du nxb đồng nai 2001 thanh hiên thi tập ebook pdf Hỗ Trợ Diễn Đàn Staff Member Quản Trị Viên ​Thanh Hiên thi tậplà tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Theo Văn học 11 tập I thì thi tập này được ông viết vào những năm trước 1802, để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn 1. Mười năm gió bụi 1786-1795 là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi. 2. Dưới chân núi Hồng 1796-1802, về ẩn ở quê nhà. 3. Làm quan ở Bắc Hà 1802-1804. Khác với Bắc hành tạp lục là những bài thơ viết về cảm nghĩ của Nguyễn Du với những cảnh trí, địa phận ông đi ngang qua, về nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên thi tập nói về cá nhân Nguyễn Du và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời. Thanh Hiên Thi Tập NXB Đồng Nai 2001 Nguyễn Du 149 Trang File PDF-SCAN Link Download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Nguyễn Minh Châu–Tuyển Tập Truyện Ngắn NXB Văn Học 2009 - Nguyễn Minh Châu, 617 Trang09/11/2014 Côn Luân Tập 3-Thuần Dương NXB Phụ Nữ 2009 - Phượng Ca, 369 Trang24/05/2017 Quẩn Quanh Trong Tổ NXB Thời Đại 2011 - Phan An, 229 Trang22/07/2015 Truyện Ngắn Đương Đại Việt Nam Tập 2 NXB Văn Học 2005 - Nhiều Tác Giả, 440 Trang04/06/2017 Chín Mươi Ba NXB Trẻ 2014 - Victor Hugo, 564 Trang12/09/2017 Hai Chậu Lan Tố Tâm NXB Cảo Thơm 1965 - Phan Du, 375 Trang01/03/2016 Chạy Đâu Cho Thoát Tập 1 NXB Thời Đại 2013 - Minh Nguyệt Thính Phong, 512 Trang12/06/2017 Ngâm Vịnh Phong Ca NXB Hồng Đức 2014 - Mạch Thượng Lê Hoa, 513 Trang08/06/2015 30 NXB Văn Hóa Văn Nghệ 2018 - Le Hai Nam, 121 Trang18/09/2022 Chiêu Quân Cống Hồ NXB Thanh Niên 1989 - Nguyễn Đỗ Mục, 294 Trang20/10/2014 Đằng Sau Dinh Độc Lập NXB Văn Hóa Thông Tin 2000 - Nguyễn Duy Xi, 301 Trang12/05/2013 Máu Đất NXB Công An 2008 - Vương Tâm, 240 Trang17/05/2017 Đừng Đùa Với Ma NXB Văn Học 2011 - Nhiều Tác Giả, 249 Trang27/03/2017 Âm Thanh Đổ Bóng NXB Hội Nhà Văn 2012 - Nguyễn Hiệp, 169 Trang24/08/2022 Đẹp Và Buồn NXB Văn Hóa Sài Gòn 2009 - Yasunari Kawabata, 285 Trang11/11/2017 Last edited by a moderator Mar 26, 2018 Share This Page Forums Forums Members Members Menu

tập thơ thanh hiên thi tập